Bạn đang xem bài viết Top 7 Bài Văn Phân Tích Nhân Vật Thị Kính Trong Vở Chèo “Quan Âm Thị Kính” Lớp 7 Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Bgxq.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” số 5Những thân phận nhỏ bé trong xã hội luôn gặp phải những khổ đau bất hạnh làm cho chúng ta phải xót xa, thương cảm. Nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” là một nhân vật như vậy, những vẻ đẹp trong tâm hồn nàng cùng số phận khổ đau vừa đem lại cho người ta sự yêu mến về nhân cách đồng thời cũng xót xa cho số phận – một số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công.
Nhân vật Thị Kính xuất thân trong gia đình nghèo khó nhưng là một người con gái đức hạnh. Đầu tiên nàng là một người phụ nữ hết lòng vì chồng, vì gia đình chồng. Đức tính này thể hiện thông qua hành động nhỏ là để ý chồng mình có cái râu mọc ngược và muốn cắt nó để làm đẹp cho chồng. Đây là một hành động thể hiện tình yêu sâu sắc với chồng, không có gì đáng chê trách mà ngược lại rất yêu thương chồng. Với hành động yêu thương ấy, đáng ra chồng nàng phải là người hiểu điều này hơn ai cả, thế nhưng lại có thể hiểu lầm nàng có ý mưu sát chồng. Một người sống cùng nhau mà không hiểu tấm lòng của nhau thì thật là đáng buồn cho Thị Kính.
Với xuất thân từ nhà nghèo được gả cho nhà chồng, sự không môn đăng hộ đối đã khiến cho nàng phải chịu số phận khổ đau sau này. Đây là số phận của nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến là vậy, chính những cổ tục hà khắc đè nén là mầm mống cho những hiểm họa về sự bất hạnh, cộng thêm sự thấp cổ bé họng, cuộc đời của họ biết đi về đâu bị. Chính những điều này khiến một việc nhỏ bé mà nàng bị vu oan có ý mưu sát chồng. Khi bị vu oan, với tính cách hiền hậu, dịu dàng, nàng không đối lại với lời lẽ cay nghiệt của nhà chồng mà chỉ một điều van xin, hai điều can xin sự thấu hiểu và đồng cảm.
Chỉ có cha của nàng đồng cảm nhưng ông lại không có tiếng nói nên nỗi oan của Thị không được làm sáng tỏ. Trước những bất công của xã hội, trước nỗi oan ức không thể giãi bày, nàng cầu xin sự chứng giám của thời xanh với tấm lòng trong sạch của mình. Cuối cùng Thị quyết định giả làm chú tiểu, nương nhờ cửa Phật để người có thể thấu nỗi lòng của nàng. Sự quyết định của nàng thể hiện tấm lòng hiếu thảo đối với cha mẹ. Nàng sợ cha mẹ bị hàng xóm láng giềng chê bai, sợ làm xấu tiếng của gia đình nên quyết định nương tựa cửa Phật.
Qua những hành động của Thị, ta thấy được số phận của người con gái đẹp người đẹp nết ấy sao mà lại bất hạnh như vậy. Ngay từ đầu, Thị không hề làm một hành động gì có lỗi cả, mọi chuyện đều xuất phát từ ý tốt vậy mà vì không tin tưởng nhau trở thành tai họa. Cuộc đời nàng không hề làm sai trái điều gì, cũng chưa từng hại ai vậy mà chịu oan, nỗi oan tày trời mà lần nào nàng cũng phải chịu. Bởi người con gái bất hạnh ấy không biết phải kêu oan ở đâu kêu oan như thế nào khi quyền thế nằm trong tay những người có quyền thế, còn nàng chỉ là một người phụ nữ bé nhỏ, khổ sở.
Qua đó, ta đồng cảm, xót thương cho nàng, cho những người phụ nữ đẹp người, đẹp nết mà phải chịu số phận khổ đau. Nhân vật Thị Kính để lại trong lòng người đọc nhiều xót xa, thương cảm cho một tầng lớp nhỏ bé, bất hạnh, đồng thời dậy lên niềm quý mến, trân trọng cho một người con gái đức hạnh, đẹp người, đẹp nết.
Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” số 2Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” số 5
Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian, chèo là một loại hình nghệ thuật đặc sắc, là một thể loại kịch sân khấu mang đậm tính dân tộc với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhiều yếu tố khác nhau như kịch, múa, hát, kể chuyện,… Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, sự phát triển của nghệ thuật, chèo vẫn giữ được vị trí quan trọng, góp phần bồi đắp, nuôi dưỡng tâm hồn những người con đất Việt với nhiều tác phẩm độc đáo, đặc sắc và vở chèo “Quan Âm Thị Kính” là một trong số những vở chèo như thế. Vở chèo “Quan Âm Thị Kính” nói chung, đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” nói riêng đã thể hiện được những phẩm chất tốt đẹp cũng như nỗi oan khuất, sự bế tắc của nhân vật Thị Kính.
Trước hết, nhân vật Thị Kính hiện lên là một người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp – dịu dàng, nết na, hết mực lo toan cho gia đình và yêu thương chồng. Thị Kính là con gái trong một gia đình nông dân nghèo nhưng đẹp người, đẹp nết và có lẽ chính vì cảm mến dung nhan, phẩm hạnh của nàng nên Thiện Sĩ đã cưới nàng về làm vợ. Kết hôn với Thiện Sĩ, Thị Kính luôn là một người phụ nữ nết na, hết mực lo cho chồng.
“Đạo vợ chồng trăm năm kết tóc,
Trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta.
Râu làm sao một chiếc trồi ra?
Dị hình sắc dưới cằm mọc ngược
Khi chàng thức giấc biết làm sao được.
Nay đang cơn giấc ngủ mơ màng,
Dạ thương chồng, lòng thiếp sao an
Âu dao bén, thiếp xén tày một mực.
Những lời nói, lời bày tỏ ấy của Thị Kính đã cho thấy nàng là một người phụ nữ chăm chỉ, chịu thương, chịu khó với công việc thêu thùa, may vá mỗi ngày. Đồng thời, nó cũng cho thấy sự chu đáo, quan tâm chồng của nàng khi nàng vừa may vá vừa quạt cho chồng ngủ. Nhưng có lẽ không dừng lại ở đó, những lời bộc bày ấy của nàng còn cho thấy sự yêu thương, lo lắng và thương chồng của Thị Kính, bởi nàng thấy đẹp mặt chồng cũng chính là đẹp mặt mình và hơn ai hết, nàng có trách nhiệm, nghĩa vụ chăm lo cho vẻ đẹp của chồng. Lòng thương chồng ấy đã khiến nàng quyết định cầm dao cắt râu cho chồng nhưng đâu ngờ rằng, chính hành động ấy đã khiến nàng phải chịu một nỗi oan, nỗi uất ức sau này.
Là một người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng ra Thị Kính phải có một cuộc sống êm ấm, hạnh phúc và vui vẻ, thế nhưng người phụ nữ ấy lại có một số phận đầy đau khổ và bất hạnh. Vì muốn cắt cái râu mọc người cho chồng, Thiện Sĩ tỉnh giấc khi chưa hiểu rõ ngọn ngành đã hét lớn, cho rằng Thị Kính muốn giết mình. Trước sự việc ấy, Sùng bà – mẹ của Thiện Sĩ đã dùng những lời lẽ cay độc, tàn nhẫn để mắng chửi, sỉ nhục và thậm chí còn đẩy ngã Thị Kính. Tuy nhiên, trước những lời nói và hành động của mẹ chồng, Thị Kính vẫn rất hòa nhã, nàng phân bua, hết lần này đến lần khác kêu oan nhưng tất cả đều trở nên vô nghĩa.
Với Sùng bà, những lời nàng nói như chỉ thêm dầu vào lửa, như nước đổ lá khoai, bởi bà đã cho rằng Thị Kính là người có tội, là kẻ tàn ác và bất nhân. Quá bất lực trước hành động và lời nói của mẹ chồng, nàng tìm đến chồng với hi vọng Thiện Sĩ sẽ hiểu và giúp nàng minh oan. Nhưng trái với suy nghĩ của mình, Thiện Sĩ cũng không thể giúp gì cho nàng, bởi lẽ chàng là một con người nhu nhược và hơn thế nữa, cũng vì Thiện Sĩ chưa hiểu rõ mọi chuyện đã hét toáng lên khiến Thị Kính bị mang oan. Đau đớn và bất lực, Thị Kính tìm đến Mãng Ông nhưng ông cũng không thể làm gì khác để có thể giúp cho con. Như vậy, dù bị oan, nhưng đến cuối cùng, không ai có thể đứng ra để giúp đỡ hay minh oan cho Thị Kính, một mình nàng phải chịu nỗi oan vô lí trong sự vô tình của mọi người với nỗi đau khổ và bất lực đến tột cùng.
Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà với nỗi oan khuất không thể lí giải còn cha của nàng thì bị đẩy ngã. Chắc hẳn sẽ chẳng có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của Thị Kính lúc này – hôn nhân, gia đình tan vỡ, mất lòng tin ở chính những người thân trong gia đình và hơn thế nữa đó chính là việc nàng đã phải chứng kiến cảnh cha mình bị làm nhục. Tận cùng của nỗi đau và sự bất lực và có lẽ cũng không còn sự lựa chọn nào khác, Thị Kính quyết định ra đi. Trước khi từ giã tổ ấm của mình, nàng vẫn không quên ngoái đầu nhìn lại thúng khâu, chiếc kỉ, thúng sách,… – những kỉ vật của một thời hạnh phúc, ấm êm nhưng nó lại cũng chính là nhân chứng cho nỗi oan ức của nàng.
Ngoái nhìn lại tất cả với một nỗi đau đớn, xót xa và cả sự luyến tiếc. Rời khỏi nhà, nàng quyết định nương nhờ nơi cửa chùa. Sự lựa chọn ấy của Thị Kính như một lẽ tất yếu, bởi lẽ nàng đã bị đuổi khỏi nhà chồng, càng không thể trở về nhà cha mẹ đẻ bởi đó là điều lễ giáo phong kiến không cho phép. Nàng giả trai đi tu, nương nhờ cửa Phật với mong mỏi sẽ có được cuộc sống yên bình và nơi thanh tịnh ấy sẽ chứng minh cho sự trong sạch của nàng. Nhưng đồng thời, sự lựa chọn ấy của nàng cũng cho thấy sự sự bế tắc của nàng nói riêng, của người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung bởi đấy là sự lựa chọn thụ động trước sự nghiệt ngã, xô đẩy của hoàn cảnh.
Tóm lại, vở chèo “Quan Âm Thị Kính” nói riêng, trích đoạn “Nỗi thương mình” nói riêng với cách xây dựng xung đột kịch gay gắt cùng cách miêu tả nhân vật độc đáo, hấp dẫn đã thể hiện được những nét đặc sắc về nhân vật Thị Kính – một người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng phải chịu nỗi oan khuất bi thảm, bế tắc. Thị Kính chính là hình ảnh đại diện cho người phụ nữ trong xã hội xưa.
Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” số 2
Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” số 4Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” số 2
Quan Âm Thị Kính là một vở chèo cổ nổi tiếng của sân khấu chèo. Nội dung của vở chèo chia làm ba phần. Phần 1 là Án giết chồng: Thiện Sĩ, con trai Sùng ông, Sùng bà gia đình khá giả, kết duyên cùng Thị Kính, con gái Mãng ông, một nông dân nghèo. Một hôm, vợ ngồi khâu, chồng đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thấy chồng có sợi râu mọc ngược, Thị Kính cầm dao khâu toan xén đi. Thiện Sĩ giật mình hoảng sợ vội hô hoán lên, Sùng bà giận dữ đổ riệt cho con dâu có ý giết chồng, mắng chửi thậm tệ và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Phần 2 là Án hoang thai: Bị oan ức nhưng không thể thanh minh, Thị Kính đành giả trai, vào thưở chùa Vân Tự, lấy pháp danh là Kính Tâm. Thị Mầu, con gái phú ông, vốn tính lẳng lơ, đem lòng say mê chú tiểu Kính Tâm. Ve vãn Kính Tâm không được, Thị Màu ăn nằm với anh Nô là đầy tớ rồi có thai. Làng bắt vạ. Bí thế, Thị Mầu đổ cho Kính Tâm, Kính Tâm chịu oan, bị sư cụ đuổi ra khỏi tam quan (cổng chùa), Thị Màu đem con bỏ cho Kính Tâm. Phần 3 là Oan tình được giải, Thị Kính lên tòa sen: Trải qua ba năm, Kính Tâm đi xin sữa từng ngày nuôi con của Thị Mầu. Rồi nàng “hóa” (chết), được lên tòa sen, trở thành Phật Bà Quan Âm. Trước khi “hóa”, Kính Tâm viết thư để lại cho đứa trẻ. Bấy giờ mọi người mới biết Kính Tâm là gái và hiểu ro tấm lòng từ bi nhẫn nhục của nàng.
Nỗi oan hại chồng và cái án oan hoang thai là hai sự kiện chính của vở chèo. Qua đó, tác giả dân gian phản ánh bi kịch trong thân phận của người phụ nữ nghèo khổ thời phong kiến. Hai sự kiện tuy thuộc hai mảnh đời khác nhau của Thị Kính nhưng liên hệ chặt chẽ với nhau. Cảnh ngộ nào cũng éo le, đau đớn nhưng mỗi cảnh ngộ lại có một vẻ riêng. Chúng kết hợp với nhau, bổ sung cho nhau để hoàn chỉnh tấn bi kịch về cuộc đời người phụ nữ. Bên cạnh nội dung đó, vở chèo còn có dụng ý đề cao phẩm chất cao quý của người phụ nữ và lên án cái xấu, cái ác trong xã hội phong kiến xưa.
Trích đoạn Nỗi oan hại chồng là cốt lõi trong phần mở đầu của vở chèo. Phần này có năm nhân vật tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch và làm nền cho nhân vật Thị Kính bộc lộ phẩm chất cao đẹp. thiện Sĩ và Sùng ông là những kẻ nhu nhược, không có chủ kiến, chỉ đóng vai phụ để làm nổi bật tính cách điêu ngoa, nanh ác của Sùng bà. Xung đột cơ bản của vở chèo được thể hiện qua mâu thuẫn của Sùng bà và Thị Kính (mẹ chồng, nàng dâu). Sùng bà thuộc loại nhân vật mụ ác, đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến với những thói hư tật xấu như hóm hĩnh, tự phụ về dòng giống cao sang, cả vú lấp miệng em, luôn lấy mình làm chuẩn mực để xem xét, đánh giá người khác theo nhân thức hồ đồ của mình, Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính trong chèo, đại diện cho người phụ nữ lao động nghèo. Thị Kính là nàng dâu ngoan hiền nết na, thùy mị nhưng bị Sùng bà nanh ác buộc tội giét chồng. Gia đình nhà chồng đã gây ra cho Thị kÍnh những nỗi oan chồng chất. Nàng bị hàm oan, hạnh phúc tan vỡ, bị đuổi khỏi nhà chồng và đau khổ nhất là phải chứng kiến cảnh người cha thân yêu bị sỉ nhục.
Mâu thuẫn giữa Sùng bà và Thị Kính về hình thức là xung đột trực tiếp giữa mẹ chồng nàng dâu nhưng về bản chất lại là mâu thuẫn sâu sắc giữa kẻ thống trị và người bị trị. Đó là cái nút đầu tiên trong vở chèo bộc lộ thân phận, địa vị thấp kém của người phụ nữ nghèo trong quan hệ gia đình và hôn nhân phong kiến.
Mở đầu là cảnh sinh hoạt đầm ấm, (vợ vá may thêu thùa. Chồng đọc sách), tuy không phổ biến và gần gũi như cảnh chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa trong ca dao nhưng nó cũng thể hiện khát vọng về hạnh phúc gia đình của nhân dân lao động.
Trong khung cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh người vợ thương chồng. Những cử chỉ của Thị Kính đối diện với Thiện Sĩ rất ân cần, dịu dàng. Khi chồng học bài mệt mỗi đêm ngủ thiếp đi, nàng dọn lại kỉ rồi ngồi quạt cho chồng. Thấy sợi râu mọc ngược dưới cằm chồng, nàng băn khoăn lo lắng về một điềm báo chẳng lành. Thị Kính muốn làm đẹp cho chồng và cho mình: Trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta…, Dạ thương chồng, lòng thiếp sao an. Âu dao bén, thiếp xén tày một mực. Tâm trạng của nàng là tâm trạng của người vợ yêu thương chồng thắm thiết.
Việc làm đầy thiện ý của Thị Kính chưa kịp thực hiện thì Thiện Sĩ chợt giật mình choàng thức dậy, hốt hoảng nắm lấy con dao kêu lên: Hỡi cha! Hỡi mẹ! Hỡi xóm! Hỡi làng! Đêm hôm khuya khoắt bỗng làm sao thấy sự bất thường… khiến cho cả nhà tỉnh giấc. Chẳng cần hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao, Sùng bà đã sừng sộ khép ngay Thị Kính vào tội giết chồng: Cái con mặt gan lim này! Mày định giết con bà à?
Thái độ của Sùng bà rất thô bạo và tàn nhẫn. Khi Thị Kính khóc lóc van xin được thanh minh, Sùng bà dúi đầu Thị Kính ngã xuống rồi lại bắt nàng ngửa mặt lên để nghe mụ chửi, chứ không cho phân bua, thanh minh gì cả.
Sùng bà nói với Thị Kính toàn là những lời đay nghiến, mắng nhiếc, lăng mạ. Dường như một lần mụ cất lời, Thị Kính lại bị kết thêm một tội. Mụ trút cho Thị Kính đủ tội mà không cần biết sự tình. Mụ xỉ vả, đuổi Thị Kính ra khỏi nhà không chỉ vì lí do cho rằng Thị Kính giết chồng mà Thị Kính còn là loại đàn bà hư đốn, tâm địa xấu xa; là con nhà thấp hèn không xứng với nhà mụ:
Giống nhà bà đây giống phượng giống công – Còn tuồng bay mèo mã gà đồng lẳng lơ – Nhà bà đây cao môn lệnh tộc – Mày là con nhà cua ốc – Trứng rồng lại nở ra trứng rồng – Lìu điu lại nở ra dòng lìu điu – Đồng nát thì về Cầu Nôm, Con gái nỏ mồm về ở với cha… Tất cả những lời nói và cử chỉ đó đã bộc lộ bản chất của một mụ nhà giàu bất nhân, bất nghĩa.
Lời lẽ của mụ chứa đựng toàn là sự phân biệt đối xử. Vốn từ ngữ dùng để so sánh chuyện cao thấp, sang hèn, giàu nghèo… của mụ phong phú đến mức đáng sợ. Mâu thuẫn giữa mụ và Thị Kính đã vượt khỏi mâu thuẫn mẹ chồng – nàng dâu. Mụ đã trả nó vào đúng vị trí là mâu thuẫn giai cấp. Các điệu hát sắp, nói lệch… phù hợp với việc thể hiện thái độ trấn áp phũ phàng và giọng nói điệu kiêu kì, tự phụ về dòng, giống giàu sang, khinh thị người nghèo khó của mụ. Nhân vật Sùng bà chỉ xuất hiện trong một lớp diễn nhưng đã bộc lộ đầy đủ tính cách của vai mụ ác trong vai chèo cổ. Mụ ra oai sấm sét để tỏ ra ” phép nhà”. Mụ tự cho mình cái quyền tạo ra “luật” và “lệ” trong gia đình Thị Kính tuy có đủ đức hạnh như lễ giáo phong kiến quy định nhưng vẫn không được gia đình chấp nhận bởi vì nàng không xuất thân từ nguồn gốc ” con nhà gia thế”. Quả là mâu thuẫn giai cấp không thể dung hòa đã tác động ghê gớm đến cuộc hôn nhân này.
Khi bị mẹ chồng khép vào tội giết chồng, Thị Kính đã có những lời nói, cử chỉ thật nhẫn nhục, đáng thương. Năm lần kêu oan thì bốn lần tiếng kêu của nàng hướng về chồng và mẹ chồng. Lần thứ nhất, nàng kêu oan với mẹ chồng: Giời ơi! Mẹ ơi, oan cho con lắm mẹ ơi! Lần thứ hai, vẫn với mẹ chồng: Oan cho con lắm mẹ ơi! Lần thứ ba, kêu oan với chồng: Oan thiếp lắm chàng ơi! Lần thứ tư, một lần nữa, lại kêu oan, van xin mẹ chồng: Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!
Thị Kính kêu oan với chồng nhưng vô ích bởi Thiện Sĩ là gã đàn ông đơn hèn, nhu nhược. Hắn bỏ mặc người vợ hết lòng thương yêu, chăm sóc gắn bó với mình cho bà mẹ độc ác hành hạ. Lúc này, Thiện Sũ chỉ là một nhân vật thừa trên sân khấu. Lời van xin của Thị Kính giống như lửa đổ thêm dầu, càng làm bùng lên những lời đay nghiến lăng nhục của Sùng bà. Thị Kính càng kêu oan, nỗi oan lại càng dày. Giữa gia đình nhà chồng người phụ nữ đức hạnh ấy hoàn toàn cô độc. Chỉ đến lần cuối cùng, Thị Kính kêu oan với cha đẻ là Mãng ông thì nàng mới nhận được sự cảm thông, nhưng đó là sự cam thông đau khổ và bất lực. Mãng ông nói trong nước mắt:
Con ơi! Dù oan dù nhẫn chẳng oan Xa xôi cha biết nỗi con nhường nào!
Kết cục của nối oan là tình vợ chồng giữa Thị Kính và Thiện Sĩ tan vỡ. Nàng bị đuổi ra khỏi nhà chồng.
Trước khi đuổi Thị Kính, Sùng bà và Sùng ông còn nhẫn tâm dựng lên một vở kịch tàn ác: lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu, kì thực là bắt Mãng ông nhận con gái về. Chúng có thú vui làm điều ác, muốn cha con Mãng ông phải nhục nhã ê chề. Hơn thế nữa, nhanh như trở bàn tay, Sùng ông đã thay đổi quan hệ thông gia bằng những hành động vũ phu. Cảnh này được xây dựng bằng những chi tiết, hình ảnh, lời nói thật sinh động:
Sự việc Sùng bà cho gọi Mãng ông đến để trả Thị Kính đã thể hiện tính cách bất nhân bất nghĩa của mụ, đồng thời bộc lộ nỗi bất hạnh lớn nhất của Thị Kính. Thị Kính như bị đẩy đến cực điểm của bi kịch. Nàng chới với trong nỗi oan ức tày trời, nỗi đau tình vợ chồng tan vỡ cộng thêm nỗi nhục nhã, đau đoén trước ảnh người cha già kính yêu bị chính cha mẹ chồng khinh khi, hành hạ.
Cuối lớp diễn, trên sân khấu chỉ còn lại hai hca con Thị Kính lẻ loi đơn độc giữa sự vô tình đến lạnh lùng, tàn nhẫn. Cảnh hai cha con ôm nhua than khóc là hình ảnh của những người nghèo khổ chịu oan ức mà hoàn toàn bất lực. Cảnh Sùng bà quy kết, đổ vạ cho Thị Kính diễn ra chóng vánh, dồn dập. Còn cảnh hai cha con Thị Kính ôm nhau than khóc thì kéo dài trên sân khấu. Sự bố trí như vậy mang ý nghĩa tố cáo cái ác và cảm thông sâu sắc với cái thiện đang bị cái ác bủa vây giwuax trùng trùng sóng dữ.
Thái độ của Thị Kính trước khi ra khỏi nhà chồng được đặc tả: Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại và thở than, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm chiếc áo ddang khâu dở, bóp chặt trong tay.
Chiếc kỉ, thúng khâu, chiếc áo đang khâu dở là bằng chứng chứng minh cho tình cảm thủy chung, hiền dịu của người vợ yêu chồng nhưng giờ đây lại bị coi là chứng cứ của sự thất tiết. Sự đảo lộn đột ngột đó đã làm cho trái tim đa cảm của Thị Kính đau đớn, bàng hoàng. Tâm sự của nàng thể hiện qua điệu sử rầu và nói thảm:
Trong nỗi đau tình vợ chồng chia cắt, nỗi nhục khi phẩm giá bị chà đạp, sự ê chề khi khong bảo vệ được người cha già bị gia đình chồng sỉ nhục, Thị Kính vẫn giữ bản chất chân thật, hiền lành, giữ phép tắc luân lí của đạo dâu con. Người đọc càng xót thương, Thị Kính bao nhiêu thì càng căm ghét sự bất nhân bất nghĩa của gia đình Sùng bà bấy nhiêu.
Kết thúc đoạn trích nỗi oan hại chồng là cảnh Thị kính cúi lạy cha rồi nói lên nguyện vọng của mình là sẽ giả trai để bước vào cửa phật tu hành. Con đường giải thoát của Thị Kính có hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực là Thị kính xác định phải sống ở đời, mới mong tỏ rõ là người đoan chính. Mặt tiêu cực là nàng cho rằng mình khỏ do số kiếp đã định, do phận hẩm duyên ôi, nên tìm vào cửa Phật để lánh đời. Thái độ của Thị Kính thiếu cái khỏe khoắn, lạc quan, dũng cảm của những người vợ nghèo trong ca dao. Nàng không dám đứng lên chống lại những oan trái bất công, chưa đủ bản llinhx vượt qua hoàn cảnh nghiệt ngã, trái lại đã cam chịu bằng sự nhẫn nhục đáng thương. Phản ứng của Thị Kính mới chỉ dừng lại ở lời trách móc số phận và ước muốn lòng dạ ngay thẳng của mình được nhật nguyệt sáng soi.
Vở chèo Quan Âm Thị Kính nói chung và đoạn trích Nỗi oan hại chồng nói riêng là vở diễn và trích đoạn chèo rất tiêu biểu của sân khấu chèo truyền thống, thể hiện chân thực cuộc sống bi thảm, bế tắc của nhiều số phận, đồng thời ca ngợi phẩm chất tốt đẹp, cao quý của người phụ nữ nghèo trong xã hội phong kiến xưa kia.
Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” số 6Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” số 4
Người phụ nữ trong xã hội xưa luôn phải chịu những bất công, khổ hạnh mà không biết giãi bày cùng ai. Trong đó tác phẩm ” Quan âm Thi Kính” đặc biệt là đoạn trích ” Nỗi oan hại chồng” đã khắc hoạ rõ nét hình ảnh người phụ nữ như vậy với nhiều bi kịch trong cuộc đời. Qua đó nói lên tiếng phê phán xã hội cũ. Thị Kính sinh ra trong một gia đình nghèo được bố mẹ gả cho Sùng Thiện Sĩ, chàng thư sinh mà gia đình khá giả.
Một đêm nọ, khi Thiên Sĩ – là chồng của Thị thiu thiu ngủ do học hành mệt mỏi. Thị Kính ngồi quạt cho chồng và nhìn thấy dưới cằm chồng có chiếc râu mọc ngược, nàng bèn dùng dao xén đi. Ngay lúc đó, Thiện Sĩ giật mình choàng tỉnh, nghĩ Thị Kính có ý đồ giết mình bèn hô hào lên. Cả gia đình chồng không phân rõ trắng đen đã vu cho Thị Kính tội giết chồng, rồi trả nành về cho Mãng Ông – cha đẻ nàng sang mặc cho Thị Kính ra sức giải thích.
Thị Kính trên cùng cha về nhà nhưng đến giữa chừng thì quyết định từ biệt cha mẹ, giả dạng nam nhi bước đi tu hành. Tuy xuất thân nghèo khó nhưng Thị Kinh là người con gái đoan trang,nhân hậu, hiền lành và rất mực thương yêu quan tâm chồng. Đây là vẻ đẹp chung của người phụ nữ trong xã hội xưa “thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non”. Tuy nhiên, dưới sự bất công của xã hội xưa, nàng bị vu oan giết chồng và không thể giải oan. Với một xã hội trong tôn trọng giá trị của phụ nữ, nàng bị người chồng đầu ấp tay kề bỏ rơi và thờ ơ, chịu đựng những oan ức sự bê tắc, nàng bị đối xử một cách tùy tiện, tệ bạc.
Mặc dù bị đối xử tệ bạc, nàng vẫn ra sức sự tha thứ ” Oan cho con lắm mẹ ơi”, “Mẹ xét tình con, oan cho con lắm mẹ ơi”… Nàng vẫn mong rằng được cảm thông, thấu hiểu, nhưng đáp lại là sự phũ phàng, nàng càng khóc thì mụ càng mắng chửi thậm thệ hơn. Đó chính là một số phận đầy bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa: thấp bé, dễ dành bị chà đạp. Đến khi chính mẹ chồng – người phụ nữ cũng không thông cảm cho Thị, nhất định đuổi Thị Kính về nhà mẹ đẻ. Đối với nàng, đó là sự đau khổ, tuyệt vọng tột cùng.
Người duy nhất hiểu Nỗi oan của Thị Kính là Mãn Ông, nhưng ông lại không có tiếng nói trong xã hội xưa, để rồi đây khi con mắt của người đời vẫn không ngừng chỉ trích. Mãng Ông tuyệt vong mà than rằng: ” Con ơi/ Dù oan con nhẫn chẳng oan/ xa xôi cha biết nỗi con thế nào?” Khi không được con người thấu hiểu, nàng cầu mong” Nhật nguyệt rang soi” cho nỗi oan, xin lậy cha lậy mẹ và ” Quyết tâm trá hình nam tử đi tu hành”.
Hành động này của Thị Kính cho thấy sự đau khổ và bế tắc tột cùng. Sự bế tắc ấy không phải của riêng Thị Kính mà là của một lớp người, một giai cấp nhỏ bé trong xã hội xưa. Tiếng nói của họ là sự phê phán mạnh mẽ xã hội thối nát, đồng thời thể hiện những ước mơ cuộc sống tốt đẹp hơn, như là sự nương nhờ cửa Phật.
Qua nhân vật ta thấy được số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ với nhiều những bất công ngang trái. Đồng thời thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm với lòng thương cảm cho những số phận bất hạnh.
Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” số 3Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” số 6
Trong những tác phẩm văn học nghệ thuật thì chèo có lẽ là một trong những thể loại có từ lâu đời nhất. Sức sống của chèo có thể đi cùng năm tháng với rất nhiều những giá trị mà nó mang lại cho tất cả chúng ta. Và trong những tác phẩm chèo mà em biết thì có lẽ “ Quan âm thị kính” là một trong những vở chèo mà em yêu thích nhất bởi những chi tiết và ý nghĩa hàm chưa trong nó. Qua đó chúng ta cũng học hỏi rất nhiều điều về những gì mà mình cần học hỏi và cố gắng. Mở đầu tác phẩm chính là đoạn trích Nỗi oan hai chồng chính là nguyên nhân gây nên những đau khổ và hiểm lầm của gia đình nhà chồng đối với Thị Kính.
Giới thiệt về Thị Kính thì cô là một người con gái đoan trang và phúc hậu. Cô luôn luôn chăm lo cho cuộc sống của gia đình nhà chồng và biết quán xuyến gia đình nhà chồng cẩn thận. Bỗng nhiên có một hôm, đang ngồi bên cạnh thêu thùa quần áo còn người chồng thì đang nằm ngủ, cô bỗng thấy chồng mình có một sợi râu mọc ngược. Suy nghĩ trong chốc lát, vì cho rằng trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta hơn thế nữa râu mọc ngược cũng mang những ý nghĩa xấu mà người vợ cầm cây kéo toan cắt chiếc râu của người chồng. Và mọi hiểu lầm cũng bắt đầu từ đây. Đang mơ màng trong giấc ngủ say thì bỗng người chồng chợt thức giấc. Khi tỉnh dậy thấy người vợ của mình đang cầm kéo kề sát cổ của mình thì Thiện Sĩ- chồng của Thị Kính cảm thấy nghi ngờ và sợ hãi. Hành động đấu tiên của người chồng chính là đã hô hoán lên. Và sự nghi ngờ này đã khiến cho cuộc sống của Thị Kính sau này trở nên vất vả và khó khăn hơn bao giờ hết. Nghe tiếng con trai kêu lên như vây thì lập tức Sùng ông và Sùng bà cùng nhau chạy vào.
Sùng bà vốn là người đanh đá chua ngoa. Thấy sự tình như vậy, không chịu hỏi đầu đuôi như thế nào, bà ta liền hô hoán lên và đổ mỗi tội lỗi lên người của cô con dâu với tội danh muốn giết chồng. Mà trong xã hội cũ thì đó chính là một trong những tội lớn nhất. Cứ thế Thị Kính không thể nào tự thanh minh cho chính bản thân của mình được bởi cứ mỗi lúc nàng muốn nói thì lại bị người mẹ chồng hắt hủi quở nạt. Tận cho tới lần thứ tư thì lúc này, người cha mới đáp lại những câu nói thanh minh của nàng nhưng đó cũng chỉ là sự bất lực mà thôi. Bởi chính Sùng ông lại là người sợ vợ, luôn chịu sự đàn áp và chỉ đạo của Sùng bà. Xã hội phong kiến cũ chính là xã hội mà ở đó, trọng nữ khinh nam đặc biết nhiều người bị ảnh hưởng. Thế nhưng trong gia đình của Sùng ông và sùng bà thì dường như cả hai người đàn ông trong gia đình đều là những người hết sức nhu nhược và không hề có những chính kiến của chính bản thân mình.
So với những người khác thì Thiện Sĩ mới là nỗi đau lớn nhất của Thi Kính. Bởi cha me chồng không hiểu nàng đã đành, thế nhưng, người chồng luôn đầu gối tay ấp với mình lại không hề nghĩ và có hành động gì thể hiện vài trò của một người chồng, người đàn ông trong chuyện này. Đó chính là cái bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ. Có người chồng bên cạnh nhưng lại người đàn ông ấy lại không thể một lần bảo vệ mình khỏi những hiểu lầm. Trong trường hợp này, có những khi chỉ một câu nói của người chồng hay là một lần người chồng đứng ra để tìm hiểu nguyên nhân của sự việc theo đúng những gì mà trách của người chồng phải làm thì mọi thứ có lẽ đã xoay chuyển theo một chiều hướng khác. Đó cũng chính là một trong nhưng điều đau khổ của những người phụ nữ thời kì lúc bấy giờ. Sự đau khổ của Thị Kính trong những lần bị người mẹ chồng và người chồng của mình hắt hủi, xa lánh càng ngày mức độ càng tăng cao. Cô không thể làm được bất cứ một điều gì. Mọi chuyện chỉ bắt đầu từ một hành động, một suy nghĩ tốt nhưng lại gây ra biết bao nhiêu phong ba, vất vả. Trong đoạn trích sử dụng rất nhiều những cặp từ ngữ đối lập nhau như: “ bấy lâu- bỗng”, “sắt cầm tịnh hảo- chăn gối lẻ loi” lại càng làm rõ nét sự đau khổ tới tột cùng của người phụ nữ. Tình cảm vợ chồng bao nhiêu lâu chỉ bị đổ vỡ bởi một lí do không đáng có.
Đó chính là điều mà người vợ cảm thấy bi ai nhất. Có những khi, chúng ta thậm chí còn cảm thấy nhân vật Thiện Sĩ thật là đáng trách. Chàng là người dùi mài kinh sử, đáng lẽ ra chàng phải là người hiểu biết nhất trong số những người trong gia đình và phải biết giải quyết những việc quan trọng trong gia đình, Thế nhưng chàng không hề làm như vậy. Chàng chỉ biết đứng đó và nhìn người vợ của mình bị mẹ mắng chửi mà không hề có những hành động mà đáng lĩ những người đấng nam nhi phải làm. Đó cũng chính là nỗi khổ của những người phụ nữ thời bấy giờ.
Tóm lại, đoạn trích trên là một trong những đoạn trích mang rất nhiều kịch tính mà thông qua những nhân vật, chúng ta càng hiểu thêm nhiều về số phận của những người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ phải chịu đựng. Đó là những nỗi khổ mà không thể nói cùng với ai mà chỉ có thể chịu đựng một mình mà thôi.
Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” số 3
Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” số 1Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” số 3
Trong vở chèo Quan Âm Thị Kính ta không chỉ thấy một Sùng bà độc ác bất nhân mà còn thấy hình ảnh của nàng Thị Kính hiền thục, nết na nhưng chịu nhiều bất công, ngang trái. Phẩm chất cũng như số phận của nàng được thể hiện rõ nhất trong đoạn trích Nỗi oan hại chồng.
Thị Kính là cô gái xinh đẹp, nết na con nhà nghèo khó. Thiện Sĩ mến vì dung nhan và đức hạnh nên đã kết duyên với nàng. Cuộc sống vợ chồng yên ấm, hạnh phúc. Một hôm, khi Thị Kính đang ngồi khâu vá còn chồng ngồi đọc sách thì bỗng Thiện Sĩ mệt mỏi nên thiu thiu ngủ. Thị Kính quạt cho chàng và bỗng thấy chiếc râu mọc ngược nên bèn lấy dao xén đi. Thiện Sĩ giật mình, bất giác hô hoán và bố mẹ chồng nàng vào, vu cho nàng tội danh giết chồng.
Trước hết Thị Kính là một người phụ nữ hiền thảo, yêu thương, quan tâm, chăm sóc cho chồng: “Đạo vợ chồng trăm năm kết tóc/ Trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta. Râu làm sao một chiếc trồi ra?/ Dị hình sắc dưới cằm mọc ngược/ Khi chàng thức giấc biết làm sao được/ Nay đang cơn giấc ngủ mơ màng/ Dạ thương chồng lòng thiếp sao an/ Âu dao bén, thiếp xén tày một mực”. Những lời tỏ bày đó cho thấy nàng là một người phụ nữ hết sức chăm chỉ, chịu khó, may vá thuê thùa, chu đáo lo cho chồng yên giấc ngủ (quạt cho chồng). Không chỉ vậy nàng còn là người thương chồng, cho rằng mình có bổn phận làm đẹp mặt chồng, bởi đẹp chồng cũng là đẹp mặt ta, chính bởi vậy nàng mới toan lấy dao xén chiếc râu mọc ngược. Vốn đó là hành động thể hiện sự yêu thương, chu đáo nhưng không ngờ lại chính là nguồn cơn cho nỗi oan, sự bất hạnh cho nàng sau này.
Dù là một người phụ nữ có dung nhan và phẩm chất tốt đẹp nhưng nàng lại là người có số phận bất hạnh. Trước những hành động độc ác của mẹ chồng: chửi mắng, sỉ nhục, đẩy ngã, Thị Kính vẫn có thái độ hết sức hòa nhã. Nàng năm lần kêu oan: ba lần với mẹ chồng, một lần với chồng và một lần với bố đẻ. Nhưng cả năm lần ấy đều trở thành vô ích. Với Sùng bà những lời giải thích của nàng chỉ càng như đổ thêm dầu vào lửa, bà ta không nghe bất cứ lời nào, bởi Sùng bà đã mặc định nàng là kẻ có tội, hơn nữa là kẻ bất nhân, độc ác nên những lời giải thích của Thị Kính chỉ như nước đổ lá khoai.
Nàng tìm đến sự cảm thông của chồng nhưng cũng vô ích, vì Thiện Sĩ là kẻ nhu nhược, không bảo vệ được người vợ yêu quý, cũng là kẻ đớn hèn, thiếu hiểu biết khi chưa hỏi rõ nguồn cơn đã la lớn khiến Thị Kính mang án oan giết chồng. Chỉ có duy nhất người sinh ra nàng là Mãng ông mới hiểu và thông cảm cho nàng nhưng ông cũng lực bất tòng tâm.
Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà một cách tàn nhẫn, cha của nàng bị đẩy ngã, đến đây kịch được đẩy lên đến cao trào. Thị Kính đau khổ vì hôn nhân tan vỡ, vì bị đuổi ra khỏi nhà không thương tiếc, nàng còn đau khổ hơn khi chứng kiến cha mình bị làm nhục. Bởi vậy nàng đã lựa chọn ra đi. Trước khi rời khỏi nơi đã từng là tổ ấm của mình nàng nhìn lại: thúng khâu, chiếc kỉ, thúng sách,… những hình ảnh, vật dụng vốn trước đây là niềm hạnh phúc với nàng thì giờ đây lại là chứng nhân cho một vụ án oan. Cái nhìn của nàng vừa luyến tiếc, nhớ thương vừa đau đớn, xót xa.
Nàng lựa chọn xuống tóc đến nơi cửa chùa làm nơi nương tựa. Sự lựa chọn của nàng là tất yếu bởi: nàng không thể ở lại nhà chồng, Sùng ông Sùng bà và ngay cả chồng nàng căm ghét nàng, đổ cho nàng tội giết chồng. Nàng cũng không thể về nhà, để làm mất mặt cha mẹ. Bởi trong xã hội phong kiến, khi con bị đuổi khỏi nhà chồng là một nỗi nhục lớn cho gia đình. Lối thoát duy nhất của nàng là giả trai đi tu. Nàng hi vọng rằng ở nơi cửa Phật nàng sẽ có cuộc sống bình yên, sẽ được Phật chứng giám cho tấm lòng trong sạch của mình. Sự lựa chọn này cho thấy nàng chưa có ý chí vượt lên hoàn cảnh mà bị thụ động trước hoàn cảnh. Đồng thời nó cũng phản ánh số phận bế tắc của người phụ nữ trong xã hội cũ. Lên án xã hội vô nhân đạo với những con người tốt bụng, lương thiện.
Bằng nghệ thuật kịch đặc sắc, tình huống kịch gay cấn, hấp dẫn đã dựng lên chân dung Thị Kính thật đẹp đẽ mà cũng đầy bất hạnh. Các tác giả dân gian vừa ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ trong xã hội cũ. Đồng thời cũng là tiếng nói cảm thương cho số phận bất hạnh của họ trước những thế lực xấu xa trong xã hội.
Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” số 7Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” số 1
Việt Nam ta có nhiều loại hình nghệ thuật rất nổi tiếng và đến giờ vẫn giữ được truyền thống ấy như tuồng, kịch nói, múa rối nước,..Một trong những loại hình nghệ thuật đặc sắc nhất là chèo. Chèo là loại kịch hát, múa dân gian,kể chuyện, diễn tích bằng hình thức sân khấu. chèo rất được nhiều người dân yêu thích và đón xem.
Trong Quan Âm Thị Kính, đoạn Nỗi oan hại chồng giúp chúng ta hiểu những nét đặc sắc của cả tác phẩm, nhất là về mặt kịch bản văn học. Nỗi oan hại chồng là bi kịch đầu tiên của cuộc đời Thị Kính – nhân vật chính của vở chèo.
Thị Kính vốn sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo hị Kính được bố mẹ gả cho Sùng Thiện Sĩ – một thư sinh đẹp trai, chăm học. Một lần đọc sách mệt, Thiện Sĩ ngủ thiếp đi. Thị Kính ngắm nhìn khuôn mặt tuấn tú của chồng, bỗng nhận ra ở cằm chồng có một sợi râu mọc ngược. Sẵn con dao nhíp trong thúng khảo đựng đồ may, Thị Kính liền cầm lên định tỉa sợi râu. Bỗng Thiện Sĩ chợt tỉnh, nhìn thấy vợ cầm dao kề vào cổ mình, liền tri hô là vợ định giết mình. Thế là Thị Kính mang tội tầy đình, bị chồng ruồng bỏ, xã hội lên án. Thị đã hành xử một cách tùy tiện đã gây ra bi kịch “ nỗi oan hại chồng”.
Trong đoạn trích 6 lần Thị Kính khóc lóc, van xin, 4 lầ khóc van lạy sùng bà “ Oan cho con lắm mẹ ơi…”, “ mẹ xét tình con, oan cho con lắm mẹ ơi..” nàng càng khóc thì mụ càng chửi mắng thậm tệ hơn. Với nàng nỗi oan chỉ có kêu trời mà thôi. Bị vu oan là giết chồng, tội ác không thể tha thứ, mẹ chồng nàng không cần biết nàng nói gì, mặc nàng cứ khóc, cứ van xin. Mụ nhất định đuổi Thị Kính về nhà mẹ đẻ. Đó là sự tủi nhục cực khổ vô cùng của Thị Kính, của người phụ nữ nghèo hèn trong xã hội cũ.
Sinh ra phải kiếp nhà nghèo tưởng rằng được nương tựa nhà giàu là bớt khổ, tưởng rằng lấy được chồng có học thì cuộc sống gia đình sẽ ấm êm, ai ngờ nhà giàu họ khinh bĩ phận nghèo, coi nàng như cỏ rác, còn chồng thì nhu nhược, vô tâm… Ngay cả cha đẻ của nàng cũng bị Sùng ông khinh miệt coi thường, mặc dù giữa họ là chỗ thông gia. Cha con ôm nhau cùng khóc, có nỗi đau nào hơn nỗi đau này. Thị Kính lại kêu với Thiện Sĩ nhưng anh chồng đần nào có động lòng. Nỗi oan của Thị Kính được người cha cảm thông, san sẻ. Nghe con gái khóc thì Mãng Ông đã cất lời than:
“ Con ơi!
Dù oan dù nhẫn chẳng oan,
Xa xôi cha biết nỗi con thế nào?”
An ủi con gái, Mãng Ông khuyên con đi về nhà “ Về cùng cha con ơi..”
Cuối trích đoạn, “ Nỗi oan hại chồng”, Thị Kính cất lời than. Đau khổ về tiếng mỉa mai sao tránh khỏi.Trách duyên số, trách hai cha mẹ con Thiện Sĩ: “ Đang tay nở bẻ phím đồng làm đôi”. Nàng cầu mong “ nhật nguyệt rạng soi” cho nỗi oan, xin lạy cha, ạy mẹ và “ quyết tâm trá hình nam tử bước đi tu hành”. Cách ứng xử cho thấy Thị Kính đau khổ và bế tắc tột cùng. Cảnh chân trời chớm rạng đông khi Thị Kính lặng lẽ bước ra khỏi nhà họ Sùng à một cảnh tượng nói lên một quan niệm, một niềm tin thánh thiện của nhân dân ta ngày xưa: con đường tu hành đi tới cửa Phật là con đường sáng.
Họ quan niệm chỉ có đến cửa Phật mới mong rũ bỏ bụi trần, khiến cho con người ta thiện hơn, nhân ái với nhau hơn. Sự bế tắc không chỉ của Thị Kính mà là của cả một lớp người, giai tầng xã hội. Cả cuộc đời họ chuỗi ngày oan trái không lối thoát. Tiếng nói của họ là sự lên án mạnh mẽ xã hội thối nát đồng thời mơ ước một xã hội tốt đẹp hơn như cõi tu chẳng hạn. Đây chính là sự bế tắc, có thể nói rằng là sự buông xuôi phó mặc cho số phận của cả một xã hội chưa có cách mạng dẫn đường.
Qua nhân vật Thị Kính ta biết được số phận của người phụ nữ xưa trong xã hội ngang trái lúc bấy giờ. Thị Kính là hiện thân của nhân vật khổ cực trong xã hội lúc ấy. Qua đây cũng cho ta thấy được đoạn trích nói riêng và vở chèo nói chung giàu giá trị nhân đạo sâu sắc.
Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” số 7
Đăng bởi: Lê Hoàn Mỹ
Từ khoá: Top 7 Bài văn phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” lớp 7 hay nhất
10 Bài Văn Phân Tích Nhân Vật Tấm Trong Truyện Cổ Tích “Tấm Cám” Hay Nhất
Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 10
Tấm Cám được xem là một trong những câu chuyện cổ tích có độ phổ biến với công chúng bạn đọc sâu rộng nhất trong đời sống xã hội của đất nước ta. Hầu như không ai lớn lên mà không có tuổi thơ biết về chị Tấm. Tấm là kiểu nhân vật phải chịu nhiều đau khổ, thiệt thòi nhưng nhờ vẻ đẹp nhân cách và sự đấu tranh chống lại cái ác, bảo vệ lẽ phải chính đáng, cô đã giành được hạnh phúc xứng đáng cho bản thân mình.
Tấm là một cô gái có thiên lương trong sáng, có nhiều phẩm chất tốt đẹp. Tấm hiền lành và rất chăm chỉ làm việc. Từ nhỏ Tấm chịu nhiều thiệt thòi khi mẹ mất sớm, bố lấy vợ mới, bố lại cũng sớm bỏ Tấm mà đi để Tấm ở lại sống với bà dị ghẻ không yêu thương gì Tấm, lại thêm một cô em gái cùng mẹ khác cha lười biếng, ích kỷ, lúc nào cũng thích bon chen với Tấm. Tuy nhiên, Tấm chẳng bao giờ suy nghĩ thiệt hơn gì cả, cũng chẳng bao giờ nghĩ xấu cho ai. Tấm cứ sống với thiên lương trong sáng như vậy.
Tuy nhiên, cuộc sống không như Tấm mong muốn, tấm cứ nín nhịn và cũng cứ bị mẹ con nhà dì ghẻ đè nén mãi. Tấm phải làm lụng vất vả còn cô em Cám thì chỉ biết chơi, được mẹ nuông chiều hết mức: “hết chăn trâu gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo; đêm lại còn xay lúa giã gạo” mọi việc lớn bé trong nhà một tay Tấm phải làm hết. Tấm thiên lương bao nhiêu thì Cám lại nanh nọc bấy nhiêu, có lần cả hai chị em đi bắt tôm tép, Cám lười nhạc chẳng chịu cho chân xuống ruộng nhưng lại gian xảo để trút hết tôm tép từ giỏ của chị Tấm sang giỏ của mình. Bà dì ghẻ thì không coi trọng Tấm, chưa bao giờ có suy nghĩ coi Tấm là người trong gia đình, là thành viên trong gia đình, lúc nào cũng chèn ép Tấm, còn hùa vào cùng cô con gái ức hiếp Tấm.
Đã không coi trọng Tấm mẹ con Cám luôn tìm cách hại Tấm cho dù Tấm lương thiện không bao giờ có ý định phản kháng những bất công mà hai mẹ con cám dành cho cô. Được Bụt tặng cho cá Bống, Tấm vui mừng khôn xiết, Tấm yêu thương, trân quý Bống vô cùng, có gì cũng san sẻ cùng Bống, tuy nhiên cá Bống vì Tấm mà phải chịu thiệt thòi khi Bống bị mẹ con nhà Cám giết thịt. Người bạn duy nhất của cuộc đời Tấm cũng bỏ Tấm mà đi. Tấm muốn đi dự hội nhà vua mà cũng bị mẹ con Cám đọa đầy đem một đấu thóc trộn cùng một đấu gạo bắt Tấm phải nhặt hết mới được đi. Có thể thấy được rằng Tấm lương thiện bao nhiêu thì mẹ con nhà Cám lại độc ác bấy nhiêu.
Về sau cuộc đời Tấm sang trang khi trở thành hoàng hậu – vợ vua, Tấm vẫn giữ được nét chân thành và giản dị như ngày xưa, nhớ về ngày giỗ cha, Tấm về cúng bố, cũng chẳng nghĩ suy về những việc mà mình phải chịu đựng ngày xưa. Nhưng với bản tính độc ác và tham lam, mẹ con Cám không ngộ nhận được mọi chuyện, vẫn cố tham lam những thứ không thuộc về mình, tìm cách hại Tấm phải chết, dụ Tấm trèo lên cây cau để hái cau xuống cúng bố còn mẹ con nhà Cám thì thập thò dưới gốc cây, đợi lúc Tấm không để ý, chặt gốc cây khiến Tấm lao xuống ao mà chết tức tưởi.
Tấm là một người vô cùng hiền lành, lương thiện, lại hiếu thảo và vị tha nhưng cuộc đời thật bất công khi Tấm muốn sống yên ổn cũng khó, vẫn luôn bị những kẻ xấu xa hại sau lưng. Nhưng vì là người tốt nên Tấm luôn được chở che từ Bụt. Biết bao nhiêu lần trong những hoàn cảnh tưởng chừng bi đát nhất của cuộc đời, tưởng chừng sự đắng cay đến cùng cực và cuộc sống chẳng còn đáng thiết tha nữa thì bụt luôn xuất hiện và phù trợ cho Tấm. Điều đó có được là vì Bụt thương cảm cho số phận của Tấm và cũng yêu quý từ tính cách thiên lương của Tấm.
Tấm hiền lành nhưng cũng là người có chính kiến, tức nước vỡ bờ và cũng là người biết đấu tranh chống lại cái xấu, các ác. Cuộc sống của Tấm cũng như một cuộc chiến đấu sinh tồn. Mẹ con Cám chưa bao giờ coi trọng Tấm, chưa bao giờ công nhận Tấm là người thân của họ, chính bởi vậy, vì lòng tham và sự ích kỷ, hết lần này đến lần khác bắt ép Tấm phải chết. Không còn những cảnh cứ gặp nạn lại khóc mà chờ đợi sự ứng cứu của Bụt, chặng thứ hai của câu chuyện chứng kiến sự đổi thay, trưởng thành của nhân vật Tấm. Mẹ con Cám cứ hại Tấm, Tấm lại hóa thân để tìm về với sự sống của bản thân. Sau lần chết đầu tiên, Tấm biến hóa thành chim vàng anh, bị mẹ con nhà Cám bắt thịt, Tấm lại biến thành cây xoan đào, rồi có cả sự hóa thân thành khung cửi, không yên lặng phản kháng, Tấm còn dám buông lời đe dọa Cám: “Cót ca cót két. Lấy tranh chồng chị. Chị khoét mắt ra”. Và cuối cùng Tấm đã dành được hạnh phúc vốn thuộc về mình, miếng trầu thơm xuất hiện cuối câu chuyện chứng minh thêm về tình nghĩa thủy chung của Tấm và vua, điều đó thể hiện rằng nhất định Tấm sẽ hạnh phúc. Mẹ con Cám bị trừng phạt, công lí dân gian đã được thực hiện với triết lý của cuộc đời: “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”.
Qua câu chuyện ta thấy Tấm hiện lên với những phẩm chất vô cùng cao quý, hiền lành, chăm chỉ, hiếu thảo nhưng lại chịu nhiều bất công. Nhưng bằng quá trình đấu tranh không khoan nhượng với cái ác cô đã giành được hạnh phúc vốn có của mình. Tấm là nhân vật tiêu biểu thể hiện quan niệm, triết lí: “ở hiền gặp lành” của ông cha ta. Câu chuyện về cô Tấm không chỉ đơn thuần là một truyện cổ tích dân gian, bài học đạo lý và triết lý nhân sinh có từ câu chuyện đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 9Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 10
Trong kho tàng văn học Việt Nam ngoài những tác phẩm truyện kí, thơ, phú, cáo…được nhiều người nhắc đến thì chúng ta còn nên nhớ đến một thể loại mà các bạn thiếu nhi hay thích nghe. Đó chính là thể loại truyện cổ tích. Có thể nói những câu chuyện cổ tích như mang hơi thở ngọt ngào của những quan niệm xưa như ở hiền gặp lành, nó là loại truyện mà dành cho trẻ em là nhiều nhất vì nó mang những yếu tố kì ảo lạ thường để cho trẻ em thỏa sức tưởng tượng. Đồng thời nó còn có những cái kết có hậu để dạy dỗ trẻ em làm người tốt. Trong những tác phầm truyện cổ tích như Thạch Sanh, Sọ Dừa… thì có lẽ truyện “Tấm Cám” cũng hấp dẫn biết bao nhiêu bạn đọc không chỉ trẻ con mà cả người lớn. Đặc biệt trong đó ta thấy nổi bật lên hình tượng nhân vật cô Tấm với những vẻ đẹp của người con gái thuở xưa.
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Mẹ Tấm chết từ hồi Tấm mới biết đi, sau đó ít năm người cha cũng chết, Tấm phải sống với dì ghẻ là mẹ của Cám. Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả dân gian đã đưa người đọc đến số phận quen thuộc trong truyện cổ tích. Ở với dì ghẻ, Tấm phải làm lụng quần quật suốt ngày đêm, từ chăn trâu, gánh nước đến thái khoai, vớt bèo, đêm xay lúa giã gạo mà không hết việc. Trong khi đó, Cám và mụ dì ghẻ thì ăn trắng mặc trơn, không phải nhúng tay vào việc gì. Sự hành hạ của mẹ con Cám không chỉ ở thể chất mà còn về tinh thần. Cám lừa Tấm trút hết giỏ tép để giành phần thưởng là chiếc yếm đỏ.
Chiếc yếm đỏ là y phục mà các thiếu nữ thời xưa lớn lên đều ao ước. Với cô Tấm nghèo khó, mồ côi nó càng trở nên quý giá. Bởi vậy mất chiếc yếm đỏ cũng có nghĩa là Tấm mất đi hy vọng được nhận yêu thương. Con cá bống còn sót lại trong giỏ cũng bị mẹ con dì ghẻ giết thịt.. Với một cô gái mồ côi, không nhận được sự chăm sóc nào thì chăm chút cho bống là một nhu cầu tình cảm, nhu cầu được sẻ chia. Việc mẹ con Cám giết bống đã phá đi chỗ dựa tình cảm, cướp đi hy vọng vừa mới nhen lên trong lòng Tấm. Lần thứ ba Tấm khóc là khi cô không được đi dự hội làng, tước đoạt ở Tấm cơ hội được gặp gỡ, chia sẻ với mọi người. Cuộc đời của Tấm là hiện thân của cuộc đời bị đày đọa, một hình ảnh tiêu biểu cho những số phận thấp cổ bé họng, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội phân chia giai cấp. Bởi vậy tiếng khóc tội nghiệp của Tấm có sức lay động bao trái tim nhân hậu, khơi gợi niềm cảm thông, chia sẻ của mọi người.
Đặc trưng của truyện cổ tích thường giải quyết mối xung đột thiện – ác theo hướng thiện thắng ác nhờ sự giúp đỡ của những nhân vật thần kì. Cô Tấm hiền lành, chăm chỉ, tốt bụng nên được Bụt giúp đỡ. Tấm mất yếm đào, Bụt cho hy vọng là con cá bống. Mất cá bống, Bụt cho hi vọng đổi đời. Tấm không được đi hội, Bụt cho đàn chim sẻ xuống giúp Tấm. Bụt cho Tấm quần áo đẹp, giày đẹp, đưa Tấm đến gặp nhà vua, giúp Tấm trở thành Hoàng Hậu, đạt đến đỉnh cao của hạnh phúc. Hoàng Hậu Tấm là hình ảnh cao nhất về hạnh phúc mà nhân dân có thể mơ ước cho cô gái mồ côi, nghèo khổ trong xã hội xưa. Điều đó một mặt phản ánh ước mơ của dân gian về triết lí “Ở hiền gặp lành” và ước mơ về một sụ đổi đời. Từ đó truyện cổ tích đã chữa lành hiện thực cuộc sống, thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, hy vọng ở tương lai công bằng, dân chủ của nhân dân lao động.
Nhưng Tấm Cám không chỉ đến đây là kết thúc, nó còn tiếp thêm một chặng đường nữa của nhân vật. Tấm tuy đã trở thành Hoàng Hậu nhưng vẫn bị cái ác săn đuổi tiêu diệt. Cô Tấm hiếu thảo trèo cây hái cau để cúng cha nhưng bị mẹ con Cám chặt cây giết chết. Nhưng cô Tấm hiền lành ngã xuống thì một cô Tấm mạnh mẽ, quyết liệt sống dậy, hóa thân trở về chống lại cái ác. Cây xoan đào, chim vàng anh, cây thị là nơi Tấm gửi gắm linh hồn, cũng là những vật bình dị thân thương trong cuộc sống dân dã. Nếu như ở phần đầu câu chuyện, mỗi lần Tấm khóc thì luôn có Bụt hiện lên giúp đỡ, thì ở phần sau, cuộc đấu tranh ác liệt hơn nhưng Tấm không còn khóc, cũng không thấy sự xuất hiện của Bụt, chỉ thấy Tấm hành động liên tiếp để chống lại kẻ thù. Sau bao lần hóa thân, Tấm trở về với cuộc đời, với làng quê bình dị, vẫn là cô gái đảm đang trong miếng trầu têm hình cánh phượng. Nhờ miếng trầu mà nhà vua nhận ra người vợ đảm của mình và đưa Tấm về cung. Nhưng Tấm hiểu rằng, không thể có hạnh phúc trọn vẹn khi cái ác còn tồn tại. Vì thế cô đã tự tay trừng trị mẹ con nhà Cám. Kết thúc đó nêu cao triết lí ‘ác giả ác báo” của nhân dân lao động.
Qua hình tượng nhân vật Tấm qua mọi thời điểm cuộc đời nàng ta thấy được vẻ đẹp của người con gái thuở xưa hiền lành lương thiện. Đồng thời nó cũng thể hiện cho quan niệm của ông bà ta là ở hiền thì gặp lành những người ở hiền thì có cuộc sống hạnh phúc những người xấu xa thì phải chịu những hậu quả mà mình tự gây ra. Không những thế ta còn thấy được sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác vô cùng kịch liệt thế nhưng cái thiện luôn luôn thắng. Và con đường đến cái thiện để hạnh phúc là một quá trình gian nan vất vả.
Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 9
Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 8Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 9
Ai đó đã từng nói: “Truyện cổ tích là thế giới hiện thực biết ước mơ”. Vâng, truyện cổ tích nói riêng và văn học dân gian Việt Nam nói chung là tiếng nói, là nỗi niềm, tiếng lòng của người bình dân trong xã hội cũ. Song những tiếng lòng ấy không hề ủy mị, không hề mềm yếu dẫu rằng nó được cất lên trong bùn đen cơ cực. “Tấm Cám” là một truyện cổ tích thể hiện rõ niềm lạc quan, niềm tin của nhân dân lao động. Tấm là nhân vật chính trong truyện hiện lên với số phận bất hạnh nhưng ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn.
“Tấm Cám” là một truyện cổ tích thần kỳ. Truyện kể về cuộc đời số phận của Tấm – cô gái mồ côi, bất hạnh nhưng có phẩm chất tốt đẹp, trải qua nhiều gian nan cuối cùng được hưởng hạnh phúc. Thông qua số phận bất hạnh của Tấm, nhân dân gửi gắm ước mơ, khát vọng lí tưởng xã hội của mình về sự chiến thắng của cái thiện với cái ác.
Tấm là một cô gái có số phận bất hạnh. Tấm mồ côi từ nhỏ: “Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm là con vợ cả, Cám là con vợ lẽ. Mẹ Tấm đã chết từ hồi Tấm còn bé. Sau đó mấy năm thì cha Tấm cũng chết. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám”. Tác giả dân gian đã đưa người đọc đến với số phận rất quen thuộc trong truyện cổ tích: đó là người mồ côi. Ở với dì ghẻ, Tấm phải sống một cuộc sống khổ cực, bị mẹ con Cám hành hạ. Tấm phải làm lụng suốt ngày đêm trong khi Cám thì thảnh thơi. Đâu chỉ có thế, Tấm còn bị Cám lừa lấy mất giỏ cá. Mất giỏ cá là Tấm mất đi phần thưởng của dì, mất đi cái yếm đẹp, mất đi tình yêu thương mà Tấm khao khát có được. Không chỉ có vậy, khi chỉ còn con cá bống bầu bạn, Tấm cũng bị mẹ con Cám bắt lấy và giết thịt. Cuộc đời Tấm dường như bị bủa vây trong sự hãm hại. Bống là con cá duy nhất còn sót lại trong giỏ cá. Bị lấy mất cá là Tấm mất đi người bạn ngày ngày tâm sự, sẻ chia, mất một niềm an ủi cuối cùng. Tấm là hiện thân của một cuộc đời đày đoạ, tước đoạt, một hình ảnh tiêu biểu cho những số phận thấp cổ bé họng, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội phân chia giai cấp. Bởi vậy tiếng khóc tội nghiệp của Tấm mỗi khi bị chèn ép, áp bức có sức lay động mỗi trái tim nhân hậu, khơi dậy niềm cảm thông chia sẻ ở mọi người.
Nhờ Bụt, Tấm từ một cô gái mồ côi đã trở thành hoàng hậu. Bụt xuất hiện mỗi khi Tấm khóc, buồn tủi cần sự an ủi, giúp đỡ. Tấm bị mất chiếc yếm đỏ, Bụt cho hi vọng là con cá bống. Tấm bị mất cá bống, Bụt lại cho hi vọng. Tấm không được đi xem hội, Bụt cho một cho đàn chim sẻ đến giúp để đi hội làng gặp nhà vua. Lúc đi hội, Tấm làm rơi giày. Chính chiếc giày giúp Tấm gặp lại được vua trở thành hoàng hậu. Đó chính là ước mơ của người xưa về một sự đổi đời trở thành hoàng hậu, bước lên ngôi vị tối cao, là ước mơ, khát vọng lớn lao của người dân bị đè nén, áp bức. Hạnh phúc ấy chỉ dành cho những con người hiền lành, lương thiện.
Tấm là một con người sẵn sàng đấu tranh để giành lại hạnh phúc cho chính mình. Thông qua các cuộc đấu tranh của Tấm, nhân dân lao động gửi gắm niềm tin, ước muốn về khát khao đổi đời,về cuộc chiến thắng của cái thiện trước cái ác. Tấm phải nhiều lần hóa thân: Tấm bị giết hóa thành chim Vàng Anh, Vàng Anh bị giết mọc lên cây xoan đào, xoan đào bị chặt, Tấm hóa khung cửi, khung cửi bị đốt, Tấm hóa quả thị, từ quả thị Tấm bước ra làm người. Cuộc đấu tranh giành lại quyền sống của Tấm là vô cùng gian nan, quyết liệt, không khoan nhượng. Cuộc đấu tranh cho thấy cái ác luôn hiện hữu, luôn xuất hiện đầy ắp hành hạ cái thiện. Khi Tấm trở thành hoàng hậu, mẹ con Cám vẫn đeo bám tiêu diệt Tấm tới cùng. Sự đày đoạ của Tấm đã đến tận cùng, bị tước đoạt cả hạnh phúc lẫn tính mạng.
Lần hóa thân cuối cùng, cô Tấm bước ra làm người đã gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc. Có lẽ hạnh phúc nơi trần thế mới là hạnh phúc đích thực và đáng trân trọng. Hạnh phúc giữa cuộc sống đời thực, được bên cạnh những người mình thương yêu. Đặc biệt, để có được hạnh phúc ấy, Tấm đã phải đấu tranh rất nhiều lần. Nếu như lúc trước lúc khó khăn, đau khổ, Tấm có Bụt hiện ra giúp đỡ thì lúc này đây, Tấm chủ động đấu tranh giành lấy hạnh phúc cho mình. Gửi hồn mình vào chim Vàng Anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị,… sau bao lần hóa thân, bị hãm hại, Tấm trở lại làm người. Tấm lại trở về là Tấm – một hoàng hậu xinh đẹp. Nhưng hạnh phúc sẽ chẳng bền lâu khi cái ác chưa bị diệt trừ tận gốc. Tấm tự tay trừng trị mẹ con Cám, để mẹ con cám phải nhận cái kết thích đáng. Nhân dân đã đứng về phía Tấm, công lý đứng về phía Tấm, hạnh phúc lại trở về bên cô Tám nết na.
“Tấm Cám” là một truyện cổ tích mà ở đó mà không hề thấy người nông dân bi quan. Cái hiện thực với xã hội bất công vẫn cứ hiện ra thông qua số phận của nhân vật Tấm nhưng cũng qua nhân vật Tấm, nhân dân gửi gắm những ước mơ, khát vọng về cuộc sống hạnh phúc, được thể hiện bằng cốt truyện chặt chẽ, có sự tham gia của các yếu tố thần kì tạo hấp dẫn cho truyện. Thông qua nhân vật Tấm, người đọc hiểu được những ước mơ, khát vọng mà nhân dân gửi gắm, ta thấy được sự đấu tranh của tầng lớp thấp cổ bé họng trong xã hội xưa.
Trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, văn học dân gian đã và mãi có chỗ đứng trong lòng bạn đọc và có giá trị sâu sắc trong kho tàng văn học Việt Nam nói chung. Bởi thông qua văn học dân gian, người đọc hiểu được đời sống cũng như tâm tư tình cảm người nông dân xưa, càng thêm trân trọng hơn kho tàng văn học dân gian Việt Nam.
Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 7Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 8
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam có rất nhiều thể loại đa dạng và phong phú, trải qua từng giai đoạn, chế độ xã hội có những thể loại đặc trưng riêng; sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao, tục ngữ…Song có lẽ truyện cổ tích là một thể loại sử dụng những yếu tố hư cấu, thần kì. Đó là mấu chốt của những câu truyện cổ tích mà thông qua đó tác giả dân gian xưa gửi gắm những ước mơ, khát vọng của người dân về một cuộc sống ấm áp, hạnh phúc, xã hội tự do, bình đẳng…Đặc biệt truyện Tấm Cám tiêu biểu cho thể loại ấy khi đã thành công trong việc xây dựng vẻ đẹp nhân vật Tấm.
Truyện cổ tích là thể loại tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định kể về số phận con người bình thường trong xã hội thể hiện tinh thần nhân đạo, lạc quan của nhân dân lao động. Truyện Tấm Cám kể về nhân vật Tấm với vẻ đẹp và những biến cố mà cô phải trải qua.
Tấm là một cô gái mồ côi cha mẹ, phải sống với mẹ con dì ghẻ. Tấm bị bắt làm việc vất vả, nặng nhọc và bị đối xử bất công. Hoàn cảnh Tấm tiêu biểu cho hoàn cảnh của người con riêng trong chuyện cổ tích. Nhưng Tấm lại có phẩm chất hiền lành, chăm chỉ chịu thương chịu khó. Tấm là hiện thân cho cái thiện, cái đẹp ở người lao động.
Cô Tấm hiền lành chăm chỉ là thế nhưng phải chịu đựng, cam chịu sự đầy đọa bất công của mẹ con Cám. Tấm làm việc vất vả còn Cám thì được nuông chiều. Giỏ tép do chính Tấm bắt cực nhọc lại bị Cám cướp mất, chính Cám đã cướp đi thành quả lao động của Tấm. Và cả yếm đỏ đối với người con gái xưa là trang phục thể hiện sự duyên dáng Tấm phải làm việc chăm chỉ để có thể có được nó nhưng lại bị Cám cướp mất, cướp đi quyền lợi vật chất của Tấm. Ước mơ nhỏ nhoi bình dị của Tấm đã không thành hiện thực. Để rồi cá bống con vật duy nhất còn sót lại trong giỏ tép là người bạn tinh thần là niềm vui an ủi của Tấm cũng bị mẹ con Cám bắt mất, họ đã cướp đi người bạn tinh thần của Tấm. Mẹ con Cám vì lòng đố kị và ghen ghét đã cướp đi của Tấm quyền lợi về vật chất và tinh thần.
Và ngay cả khi làng mở hội thì Tấm cũng ngoan ngoãn làm theo lời dì dặn mà không cãi lại cũng không dám chốn đi. Tấm lại khóc và con người hiền lành ấy cũng được bụt giúp đỡ. Và khi đã trở thành hoàng hậu thì Tấm vẫn bị mẹ con Cám hãm hại hết lần này đến lần khác. Ngay địa vị hoàng hậu và cuộc sống giàu sang cũng chưa đủ để cứu Tấm khỏi âm mưu hãm hại của gì ghẻ.
Tấm lại phải trải qua bao nhiêu kiếp nạn khổ đau rồi mới được hạnh phúc. Từng ấy đau khổ, bất hạnh, đày đọa khiến người ta không thể không xót xa, thương cảm. Tấm “nghe lời, bưng mặt khóc hu hu, òa lên khóc, ngồi khóc một mình, nức nở khóc” đã bao nhiêu lần Tấm cam chịu trước sự đầy đọa bất công của mẹ con Cám là bấy nhiêu lần Tấm đã khóc. Không chỉ thế Tấm đã rất nhiều lần chết đi sống lại và hóa thân vào nhiều thứ từ hóa thân thành chim vàng anh, rồi thành cây xoan đào, hiện hình vào khung cửi rồi vào quả thị và trở thành người. Tấm phản kháng quyết liệt hóa thân và hồi sinh để đấu tranh giành sự sống và hạnh phúc.
Cô Tấm hiền lành luôn có bụt, những thứ xung quanh như xương cá, gà, cá bống, ngựa, chim sẻ giúp đỡ mà đã vượt qua rất nhiều khó khăn. Tấm được lực lượng thần kì phù trợ để chiến thắng được cái ác. Và sự hóa thân thành thị, xoan đào, khung cửi hay vàng anh giúp Tấm dành lại sự sống và hạnh phúc.
Và ngay cả khi trả thù mẹ con Cám thì giờ đây Tấm đã mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Hành động trả thù phù hợp với sự vận động trong hành động của Tấm từ bị động sang chủ động hay đây chính là kết cục của cái ác phải bị trừng phạt. Hình ảnh đẹp của Tấm mà giúp chúng ta hiểu hơn phần nào cuộc sống của người lao động trong xã hội cũ. Họ bị trà đạp bất công và không có quyền nói lên tiếng nói của mình. Chính vì thế mà họ gửi những ước mơ của mình, niềm tin vào cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn vào trong cổ tích- bình chứa ước mơ của dân gian xưa. Và cô Tấm chính là tiêu biểu cho họ một người hiền lành chăm chỉ, chất phác nhưng luôn luôn bị những thế lực tàn ác hãm hại và cuối cùng cái thiện đã chiến thắng cái ác. Đó cũng chính là mong muốn của người xưa khi gửi gắm vào những câu chuyện cổ tích.
Từ nhân vật Tấm mà chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới nhân vật trong chuyện cổ tích. Dù bị đối xử bất công nhưng họ vẫn đứng lên, đấu tranh để dành lại sự sống cho mình. Điều đó thật đáng ca ngợi và tự hào.
Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 6Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 7
Từ xa xưa, trong kho tàng văn học Việt Nam có vô van những câu truyện cổ tích ý nghĩa răn dạy mỗi con người chúng ta. Những mẩu chuyện về tấm lòng nhân hậu, về lòng nhân ái.Trong đó có cả cái thiện luôn luôn hiện hữu xung quanh cuộc sống chúng ta và cái ác luôn bị cái thiện chiến thắng. Truyện Tấm Cám là một trong số những tác phẩm như thế, truyện kể về cô Tấm xinh đẹp đảm nhân hậu luôn bị mẹ con ghì ghẻ ghẻ lạnh và hãm hại. Cô Tấm là điển hình cho vẻ đẹp của phụ nữ Việt Nam, vừa đẹp người lại đẹp nết, dù sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng tâm hồn vẻ đẹp của nàng luôn mãi sáng ngời.
Tấm từ nhỏ sinh ra đã vốn hiền lành nhân hậu. Mẹ Tấm mất sớm, ba tấm lấy vợ hai Tấm ở với dì ghẻ là mẹ Cám và rồi sau đó mấy năm cha Tấm cũng qua đời. Ghì ghẻ vốn là người nham hiểm độc ác kể cả về lời nói và hành động. Gì ghẻ phân biệt đối xử với em là Cám, cay nghiệt với Tấm bắt Tấm phải làm hết mọi việc nặng nhọc từ việc nhà đến việc chăn trâu cắt cỏ. Tấm phải làm việc vất vả quần quật từ sáng tới tối mà không hết việc trong khí đó mẹ con nhà Cám luôn ngắm khía ăn trắng mặc trơn. Cám hằng ngày chỉ chơi không phải động tay chân việc gì trái ngược hoàn toàn với Tấm. Ấy vậy mà nàng Tấm hiền lành nhân hậu không hề cãi lại hay tỏ bất cứ thái độ nào cả. Nàng chỉ biết vâng lời và chịu đựng làm theo.
Tấm chịu thương chịu khó, hàng này làm việc đều đặn. Cám sống trong sung sướng chính vì vậy sự nuông chiều quá đà khiến Cám trở thành một con người nham hiểu luôn ghen ghét chị của mình mặc dù được sung sướng giống hệt bản chất của mẹ mình. Sống trong một gia đình nhưng Tấm đã trở thành người ngoài từ bao giờ. Nếu trong xã hội xưa gia đình có hai chị em thì tấm lòng thương thảo yêu thương đùm bọc nhau luôn được đặt lên đầu. Nhưng đối với Cám chuyện giúp đỡ chị mình là điều không bao giờ xảy ra.
Trong truyện những mâu thuẫn đầu tiên của Tấm và Cám bắt nguồn từ việc dì ghẻ sai hai chị em đi xúc tép, ai xúc được nhiều thì dành cho cái yếm đỏ. Vốn làm lụng chăm chỉ thường ngày Tấm ra đồng một lúc là đã bắt được đầy giỏ, Còn về phần Cám sống trong sung sướng đâu biết việc bắt tôm tét là gì. Chỉ rong chơi bắt bướm hết ruộng này đến ruộng khác. Nhưng vốn là con người láu cá, ranh ma Cám lợi dụng tấm lòng tin người thật thà của Tấm mà lừa nàng đi gội đầu tránh việc về nhà bị mẹ mắng. Cám trút hết tép ở giỏ Tấm vào giỏ mình và tung tăng ra về nhận yếm đỏ mặc kệ Tấm. Ngược lại cô Tấm sau khi phát hiện mình bị lừa, chỉ biết ôm mặt rồi khóc. Nàng Tấm trở lên yếu đuối chỉ biết khóc lóc khi gặp chuyện khó khăn, bởi cô hiểu quá rõ hai mẹ con nhà Cám, chắc chắn cô không thể đòi lại công bằng cho mình và lâu dần những chuyện như này đã trở nên quen thuộc với Tấm.
Hiểu được sự bất hạnh của nàng. Bụt cuất hiện và chỉ cách để Tấm nuôi cá Bống còn xót lại trong giỏ. Tấm hiền lành lại có bạn để sống cùng. Cứ mỗi bữa ăn, Tấm đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống. Bống lớn nhanh như thổi. Những tưởng Bống sẽ theo Tấm bầu bạn mãi mãi, nhưng không ngờ mẹ con Cám đã sớm theo dõi Tấm từ lâu lừa Tấm để rồi ở nhà thịt cá Bống ăn. Cũng như mọi khi Tấm gọi không thất Bống đâu chỉ thất một cục máu nàng lại gục mặt xuống khóc nức nở. Bụt hiện lên và rặn Tấm nhặt xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường mình. Tấm không hiểu nhưng luôn ngoan ngoãn làm theo.
Khi làng mở hội Tấm cũng bị mụ gì ghẻ tìm cách không cho đi bằng cách bắt nàng nhạt đậu. Nàng lại gục đầu xuống khóc, Bụt lần nữa hiện ra, sai chim giúp nàng nhặt đậu chỉ nàng đào xương cá lấy đồ đẹp mặc đi dự hội. Cuối cùng hạnh phúc đã đến với Tấm. Nàng được Vua chọn làm hoàng hậu, đưa về hoàng cung hết mực chiều chuộng.
Cuộc đời Tấm sau khi vào cung đã được như ý muốn hạnh phúc và vui vẻ. Nhưng rồi mẹ con Tấm đâu để nàng sống dễ dàng. Dù đã là Hoàng hậu nhưng Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha – đó là một truyền thống quý báu của dân tộc ta, ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây, con cái không bao giờ được quên công ơn dưỡng giục của cha mẹ. Nàng trở về thắp hương cha và bị mẹ con Cám hại chết. Cám vào hoàng cung tháy thế Tấm nhưng rồi cái ác đâu thể hiểu được hạnh phúc. Cám luôn bị vua ghẻ lạnh không quan tâm, hàng ngày luôn nhung nhớ Tấm.
Tấm hóa thân thành vàng anh quay về hoàng cung gặp vua nhưng lại bị mẹ con Cám giết hại và bịa chuyện nói dối Vua. Sau đó, Tấm lại hóa thân thành hai cây xoan đào đẹp đẽ hàng ngày rủ bóng, vua đi ngang qua thấy vậy liền sai quân lính mắc võng nằm nghỉ. Bản tính nham hiểm độc ác của Cám lại trỗi dậy, Cám sai người chặt cây đóng làm khung cửi rồi lấy cớ do bão nó với Vua. Hàng ngày, Cám ngồi dệt vải trên chiếc khung cửi đó, Tấm lại đem lời mà dọa Cám. Thấy vậy, Cám sợ hãi sai người đốt khung cửi mà đem tro đi đổ cách xa hoàng cung. Cũng từ đống tro ấy mọc lên một cây thị mà lại một trái rất thơm. Bà hàng nước thấy vậy muốn đem ý mang thị về nhà. Trước đây, Tấm là một người yếu đuối, hiền lành hễ gặp chuyện là chỉ biết khóc, chính hoàn cảnh khó khăn khốc liệt đã đánh thức nàng trỗi dậy, khiến nàng trở lên mạnh mẽ hơn mà không cần nhờ đến sự giúp đỡ của Bụt.Tấm chính là hiện thân một con người nhân hậu hiền lành, chịu thương chịu khó vì hoàn cảnh khó khăn éo le nhưng vẫn sáng lên ý chí chiến đấu, vựơt lên cái ác những điều cám dỗ mà sống một cách mãnh liệt.
Từ sau hôm đó, hàng ngày Tấm lại bước ra từ quả thị giúp đỡ bà việc nhà. Thấy làm lạ bà hàng nước lén trộm nhìn rồi xé vụn vỏ thị để nàng ở lại. Nàng và bà sống vui vẻ với nhau. Một hôm vua đi ngang thấy quán nước sạch sẽ lên ghé lại nghỉ ngơi, Vua nhìn thấy miếng trầu têm cánh phượng giống hệt như vợ mình liền hỏi truyện và biết đó là Tấm. Vua rước Tấm trở về hoàng cung và cùng nhau sống hạnh phúc. Còn mẹ con Cám thì độc ác xấu xa đã phải chết một cách tất tưởi. Chúng phải chết trong nồi nước sôi nóng. Đó chính là kết cục của kẻ ác.
Qua câu chuyện “ Tám Cám” ta thấy được hình tượng của Tấm chính là biểu trưng cho sự đấu tranh gay gắt giữa sự bất công, mâu thuẫn trong nội tại mỗi con người, nhưng qua cuộc đấu tranh ấy, hình tượng nhân vật Tấm lại được sáng lên với những bài học vô cùng sâu sắc và ý nghĩa. Cái ác sẽ hông thể nào chiến thắng cái thiện và nó sẽ luôn luôn bị trừng trị.
Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 6
Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 5Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 6
yện cổ tích Tấm Cám từ lâu đã được biết đến là một truyện cổ tích khá nổi tiếng và thu hút được rất nhiều người đọc và biết đến. Hình ảnh cô Tấm hiền lành cũng luôn xuất hiện trong ký ức của mỗi em nhỏ và trở thành một nhân vật luôn đại diện cho sự hiếu thảo, hiền lành và tốt bụng. Thông qua Tấm thì tác giả dân gian cũng đã gửi gắm rất nhiều ước mơ, lý tưởng về sự công bình. Nhân vật Tấm cũng chính là một nhân vật trung tâm trong truyện cổ tích “Tấm Cám”.
Không khó có thể nhận thấy được “Tấm Cám” là truyện cổ tích thuộc kiểu truyện về người mồ côi và đặc biệt dễ nhận thấy được ở truyện lại mang yếu tố thần kì. Truyện cổ tích đặc sắc và tiêu biểu cho cổ tích của Việt Nam thì “Tấm Cám” thuộc loại truyện đã phản ánh số phận của cô gái mồ côi, nhân vật chính trong truyện cũng lại bất hạnh cùng mơ ước luôn mong muốn được đổi đời và công lí xã hội của người lao động chân chất và rất hiền lành. Đọc truyện “Tấm Cám” người ta nhận thấy được số phận của nhân vật trung tâm là cô Tấm. Hình ảnh của cô Tấm dường như cũng đã lại gắn liền với cuộc đấu tranh chống lại cái ác và cái xấu qua hai chặng đời đấu tranh của cô được thể hiện rõ trong truyện đó chính là người con mồ côi bị ức hiếp và sau khi trở thành vợ vua sống một cuộc sống hạnh phúc và viên mãn nhất.
Tác giả dân gian cũng đã xây dựng nhân vật cô Tấm mồ côi vốn hiền lành, chăm chỉ, luôn luôn bị mẹ con Cám chà đạp và hãm hại không thương tiếc. Ngay ở phần đầu câu truyện thì người ta đã bắt đầu nhận thấy được sự mâu thuẫn dù còn nhỏ. Đó chính là chuyện đi bắt tép mà mụ dì ghẻ sai Tấm và Cám đi. Nếu ai mà bắt được nhiều hơn thì sẽ được thưởng cho cái yếm đỏ, Tấm thì chăm chỉ nên bắt được nhiều hơn. Cứ ngỡ rằng Tấm sẽ là người nhận được phần thưởng, thế nhưng bằng mưu mô của mình mà Cám đã lừa chị Tấm để trút hết tôm téo vào giỏ của mình và đi về trước nhận thưởng của mẹ. Tấm như bất lực trước hành động của Cám và cô cũng chỉ còn biết khóc mà thôi. Bụt hiện lên và bảo cô nhìn vào giỏ xem còn cái gì không thì quả nhiên còn một con cá bống. Nghe lời bụt dặn thì cô Tấm mang cá bống về nuôi, hàng ngày để dành ra một bát cơm để nuôi cá bống trong giếng cùng với câu gọi mà Bụt căn dặn. Thế nhưng nuôi chẳng được bao lâu thì cá bống cũng bị mẹ con Cám bắt ăn thịt.
Tiếp theo đó chính là sự việc khi được tin nhà vua mở hội, Tấm lại bị dì ghẻ hành hạ bằng cách bắt nhặt thóc gạo trộn lẫn với nhau, xong mới được đi xem hội. Thực sự người đọc như nhận thấy được cứ mỗi lần mà cô Tấm mà bị hà hiếp, Tấm dường như cũng chỉ biết khóc mà thôi. Tiếng khóc của Tấm như chứng tỏ một điều đó chính là Tấm cũng đã ý thức được nỗi khổ của chính mình và đó là một thái độ phản kháng mang tính thụ động và mềm yếu.
Khi cô Tấm lại trở thành hoàng hậu rồi nhưng vẫn bị cái ác tiêu diệt và luôn luôn đe dọa. Hình ảnh cô Tấm hiền lành, lương thiện khi vừa bị giết chết thì ngay lập tức ta lại thấy được có một cô Tấm mạnh mẽ và quyết liệt sống dậy, trở về với cuộc đời để đòi hạnh phúc cho chính mình và ngày càng quyết liệt hơn nữa. Khi cô Tấm hóa vàng anh thì điều này dường như cũng đã lại báo hiệu sự có mặt của mình thì bị giết chết rồi. Cô Tấm thêm lần nữa lại hóa cây xoan đào (khung cửi), và không ngại ngần khi tuyên chiến với kẻ thù thì bị đốt cháy nhẫn tâm. Tro khung cửi vứt bên vệ đường thì lại mọc lên cây thị. Biết bao nhiêu lần chết đi rồi lại tỉnh lại của Tấm như khẳng định một sức sống vô cùng mãnh liệt không hề dễ dàng bị tiêu diệt. Và đó phải chăng cũng chính là thông điệp của người dân mốn gửi gắm cái thiện không bao giờ chịu khuất phục trước cái ác, cũng không bao giờ bị đánh bại. Hình ảnh con chim vàng anh, cây xoan đào (khung cửi) hay đó còn là hình ảnh của cây thị (quả thị) đều chính là những vật cô Tấm gửi gắm linh hồn. Đồng thời những hình ảnh này dường như cũng là những vật bình dị thân thương trong cuộc sống dân dã của nhân dân lao động.
Biết bao lần hóa thân chiến đấu chống kẻ thù, nhân vật cô Tấm trở lại với cuộc đời. Dường như Tấm cũng đã hiểu rằng không thể có hạnh phúc trọn vẹn nếu cái ác còn tồn tại được. Chính vì thế mà cũng đã có hành động ở cuối tác phẩm đó chính là cô lừa Cám tự dội nước sôi lên người và làm mắm gửi về cho mụ dì ghẻ. Khi cái ác bị tiêu diệt hoàn toàn thì lúc đó Tấm mới có thể sống trọn vẹn được hạnh phúc của mình. Và thông qua câu truyện thì cha ông ta cũng đã thể hiện được những triết lý thông qua câu chuyện cổ tích Tấm Cám này chính là “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo” thực sự cũng vô cùng phù hợp với mong ước của nhân dân về sự trừng phạt kẻ thù. Có thể nhận thấy được sau bao đau khổ, sau bao nhiêu lần Tấm cứ chết đi sống lại nhiều lần thì cuối cùng Tấm nhận được hạnh phúc trọn vẹn nhất.
Hình ảnh cô Tấm nghèo khổ, lương thiện luôn luôn bị các thế lực khác chèn ép và khiến cho cô nhiều lúc đến đường cùng. Thế nhưng đến cuối cùng thì Tấm vẫn được hưởng hạnh phúc trọn vẹn. Truyện cổ tích luôn được cha ông ta gửi gắm những ước mơ, ước mơ đổi đời của những người lao động nghèo. Thông qua hình ảnh của Tấm sống thảo hiền thì tác giả dân gian cũng đã tái hiện được bức tranh về một xã hội lí tưởng luôn có cái thánh thiện và sống lương thiện luôn được hạnh phúc, kẻ độc ác cũng sẽ bị trừng trị thích đáng.
Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 4Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 5
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện cổ tích đã đóng góp một số lượng tác phẩm đồ sộ, có ý nghĩa giáo dục to lớn, hướng con người ta đến tư tưởng hành việc thiện, đấu tranh chống lại cái ác, rèn luyện lối sống tốt đẹp. Cũng như trở thành món ăn tinh thần hấp dẫn của nhiều độc giả thiếu nhi trên khắp cả nước, gắn bó sâu sắc với tuổi thơ của nhiều thế hệ. Trong đó câu chuyện Tấm Cám là một câu chuyện phổ biến, được xếp vào hàng kinh điển, cách xây dựng cốt truyện cùng quá trình chuyển hóa, trưởng thành của nhân vật đã đem đến cho người đọc nhiều xúc cảm, cũng như những bài học nhân văn sâu sắc. Nhân vật cô Tấm là nhân vật trung tâm của tác phẩm, là nhân vật cổ tích được yêu thích trong nhiều thế hệ trở thành hình mẫu lý tưởng, ví von tốt đẹp để chỉ những cô gái xinh đẹp, hiền lành. Mà trong truyện Tấm Cám nhân vật này cũng có khá nhiều khía cạnh tính cách thú vị cần phân tích.
Tấm ngay từ thuở nhỏ đã có cuộc sống khổ cực bất hạnh, mồ côi mẹ ngay từ khi còn bé, ít lâu sau thì bố lại cưới vợ mới. Tuy dì ghẻ ghét Tấm nhưng vì còn bố, nên Tấm cũng đỡ phần này khổ cực. Chỉ không may rằng, không bao lâu sau bố đẻ của Tấm cũng qua đời, khiến cô lâm vào cảnh tứ cố vô thân trong chính căn nhà của mình, ngày ngày phải chịu sự chèn ép của người mẹ kế và cô em gái cùng cha khác mẹ.
Dù là con vợ cả thế nhưng Tấm phải làm việc quần quật bất kể ngày đêm, “hết chăn trâu, gánh nước, vớt bèo, thái khoai, đêm lại còn xay lúa giã gạo mà không hết việc”, trái lại Cám lại được ăn trắng mặc trơn, chỉ quanh quẩn ở nhà không phải làm việc nặng bao giờ. Từ đây người ta thấy được một vẻ đẹp của Tấm ấy là sự chăm chỉ, đảm đang trong công việc lao động. Nhưng đồng thời cũng nhận ra giữa Tấm và mẹ con Cám đã xảy ra mâu thuẫn, ấy là sự đối xử bất công và sự bóc lột sức lao động một cách độc ác, cay nghiệt đối với thành viên trong gia đình. Không chỉ vậy Tấm còn bị bóc lột cả về vật chất và tinh thần, khi mụ dì ghẻ đề ra chuyện thi bắt tép, treo thưởng cái yếm đỏ. Rõ ràng mụ thừa biết rằng cô con gái của mình chẳng bao giờ biết mò tép, nhưng vẫn nhắm mắt trao thưởng cho Cám, còn để Tấm phải chịu thua, trong buồn tủi và ấm ức.
Thế nhưng Tấm là người con gái yếu đuối, nhẫn nhịn, trước sự bất công Tấm dường như quen thuộc và chai lỳ, nàng chỉ biết khóc lóc, tủi phận. Bụt lúc này hiện lên giúp đỡ, chỉ cho Tấm đem Bống về nuôi trong giếng, nàng mới tìm lại được chút niềm vui sống, hạnh phúc khi quanh quẩn bên chú cá nhỏ. Tuy nhiên sự ghen ghét, đố kỵ của mẹ con dì ghẻ không bao giờ buông tha cho Tấm, họ sẵn sàng lừa Tấm đi chăn trâu xa để giết thịt Bống, tước đoạt đi niềm vui và giá trị tinh thần duy nhất Tấm hiện có. Nhưng Tấm trước tình cảnh bị chèn ép như vậy vẫn chỉ cắn răng chịu đựng và khóc lóc, nàng không biết phải phản kháng hay đấu tranh như thế nào. Lần nữa Bụt lại hiện lên chỉ dạy cho Tấm đem xương cá đi chôn, ngày sau ắt có lúc dùng đến.
Tấm đã sống trong căn nhà ấy, với thân phận như một kẻ ở, chịu nhiều khổ sở, bị tước đoạt đi sức lao động, niềm vui, giá trị tinh thần, thậm chí sự cay nghiệt của mẹ con Cám còn tận cùng đến độ tước đoạt của Tấm cả quyền được mưu cầu hạnh phúc. Tấm khao khát được đi chơi hội, bởi dù khổ sở, mệt mỏi với công việc đồng áng, nhưng bản thân Tấm cũng đã lớn, đã trở thành một thiếu nữ, nàng cũng ước mong có những phút giây vui vẻ, giao hòa với xã hội, xa hơn là kiếm cho mình một tấm chồng, có cuộc sống điền viên. Thế nhưng mẹ con Cám không cho Tấm được cái quyền ấy, mụ dì ghẻ đã tìm cách ngăn chặn Tấm mưu cầu hạnh phúc bằng việc trộn lẫn gạo và thóc, rồi bắt nàng phải lựa cho xong rồi mới được đi chơi hội. Rõ ràng đó là một chuyện hết sức khó khăn, Tấm có siêng năng nhặt nhạnh đến đâu thì khi xong hội cũng đã tàn.
Lúc này đây đến cả mong ước cuối cùng cũng bị mẹ con Cám chặt đứt, bản thân Tấm lại không thể phản kháng, sự yếu đuối, nhu nhược khiến Tấm chỉ còn cách khóc lóc để xả mối tủi hờn trong lòng. May mắn thay sự yếu đuối, bất lực của Tấm trước thực cảnh bế tắc lại luôn có sự giúp đỡ của Bụt, Bụt sai một bầy chim đến nhặt thóc giúp Tấm, lại chỉ Tấm đào xương cá lên lấy đồ đi dự hội. Và cuối cùng bằng sự giúp đỡ của Bụt, Tấm đã thoát khỏi sự chèn ép của mẹ con Cám để đến gần hơn với hạnh phúc của bản thân. Đặc biệt sự kiện đánh rơi hài đã dẫn nàng đến một chặng đường mới, mà ở đây nàng vừa được nếm trải hạnh phúc tuyệt vời, cũng đồng thời lại rơi vào mối mâu thuẫn gay gắt hơn với mẹ con Cám.
Nhà vua sau khi mò được chiếc hài của Tấm đánh rơi, thì ra lệnh cho các cô gái lần lượt đến thử hài, ai đi vừa người sẽ lấy về làm vợ.
Mẹ con Cám cũng thử nhưng rất tiếc không vừa, nhưng khi Tấm ướm thử thì vừa in, ngay hôm đó nhà vua đã cho người rước Tấm về làm hoàng hậu, nàng hưởng cuộc sống nhung lụa, ấm êm và có được tình yêu thương của nhà vua, đó là thứ trước đây nàng chưa từng nghĩ đến, đồng thời cũng là sự đền bù cho những ngày tháng khổ cực của Tấm trước đây. Tuy nhiên, sự sung sướng, hạnh phúc của Tấm lại trở thành nỗi ghen ghét oán hận của hai kẻ hám danh lợi là mẹ con Cám. Chúng đã ủ mưu giết Tấm, để đưa Cám thế vào vị trí hoàng hậu thay chị. Còn bản thân Tấm, nàng vốn là người con gái hiền lành, thậm chí nói quá là thì có chút nhu nhược, bản thân nàng không thể nhận ra những âm mưu cay độc của mẹ con Cám khi chúng xởi lởi mời nàng về làm giỗ cha.
Mà Tấm dù ở cương vị hoàng hậu, nhưng nàng vẫn một lòng làm tròn đạo hiếu, sẵn sàng tháo giày, trèo lên cây cau theo lời của dì ghẻ để hái cau vào cúng cha. Sự ngây thơ, tin tưởng sai chỗ cùng với bản tính thật thà của nàng đã trở thành trợ lực khiến kẻ xấu được lợi, còn nàng phải chịu cái chết đầy oan ức. Tuy nhiên cái chết của Tấm đã trở thành nền tảng khiến nàng trở nên mạnh mẽ, không còn thụ động khóc lóc, hay cam chịu như khi còn ở nhà. Bởi lẽ lần này mâu thuẫn giữa nàng và mẹ con Cám không còn nằm ở việc bị đối xử bất công, sự bóc lột các giá trị vật chất tinh thần trong gia đình nữa mà chuyển sang một mâu thuẫn gay gắt hơn ấy là sự tranh đoạt về địa vị, quyền lợi xã hội và quan trọng nhất là mạng sống. Tấm đã vùng lên đấu tranh một cách thần kỳ, cố gắng tìm cách quay trở về hoàng cung bằng các hóa thân khác nhau, ban đầu thì là chim vàng anh, sau là cặp xoan đào, rồi đến khung cửi, cuối cùng là bằng thân xác người phàm chiu ra từ quả thị.
Bộc lộ sức mạnh ý chí tinh thần ham sống mạnh mẽ, quyết liệt, không chấp nhận việc hoàn toàn chết đi để được lợi cho kẻ thù. Không chỉ dừng lại ở ý chí sống còn, mà Tấm còn có những đòn phản công mạnh mẽ, khéo léo, đầu tiên là biến thành chim vàng anh quay về cung quấn quýt bên vua, khiến Cám bị ghẻ lạnh. Khi bị Cám giết, vứt lông ra vườn thì lập tức mọc thành hai cây xoan đào để ngày ngày vua mắc võng hóng mát, Cám tiếp tục nhận lấy sự thờ ơ của vua. Như vậy lần này Tấm mới chỉ đơn giản là giành lại hạnh phúc của bản thân thông qua những hóa thân khác nhau, đồng thời cho Cám nếm trải mùi vị bị lạnh nhạt, xa cách, khiến nàng ta đau khổ vì bản thân còn không bằng một con chim, một cây gỗ vô tri. Điều đó khiến Cám càng trở nên cay độc hơn khi chặt cây xoan đào làm khung cửi, để triệt hạ tận gốc sự sống của Tấm, nhưng đáng tiếc Tấm vẫn quay về với lời đe dọa như dự báo trước một kết cục đầy bi thảm cho sự tàn nhẫn của Cám “Cót ca cót két, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”.
Sự đe dọa trắng trợn và khủng khiếp đã khiến Cám hoảng sợ vô cùng, bèn đem đốt khung cửi và ném tro ra thật xa hoàng cung, những tưởng đã diệt trừ được hậu họa. Nhưng không ngờ từ chỗ tro tàn lại mọc lên cây thị, ra độc một trái to và thơm, rồi được một bà lão bán nước xin mang về để trong nhà. Tấm tái sinh, trở lại làm người sau nhiều lần hóa kiếp, và có cuộc gặp gỡ với nhà vua, chồng nàng nhờ miếng trầu têm cánh phượng. Hai người lưỡng tình tương duyệt, cuộc hội ngộ bất ngờ đã khiến nhà vua vô cùng hạnh phúc, liền lập tức đó Tấm về cung, trả lại vị trí hoàng hậu cho nàng. Tấm sau khi trở về đối với kẻ đã nhiều lần hãm hại mình, nàng không muốn và cũng không cần nương tay.
Cũng như thuở trước mẹ con Cám đã làm với mình, Tấm lập mưu lừa Cám nhảy vào hồ nước sôi bỏng chết, mụ dì ghẻ nghe tin con chết thì cũng lăn đùng ra chết theo. Có thể nói rằng sự trả thù, trừng phạt của Tấm là hoàn toàn thích đáng so với những gì mà mẹ con Cám đã gây ra cho nàng. Tính ra bản thân Tấm đã phải chịu sự tước đoạt mạng sống nhiều lần, và đều do hai kẻ độc ác này gây ra. Thế nên chỉ có cái chết mới có thể đền tội của chúng. Thêm vào đó cái chết và sự tái sinh của Tấm chính là một màn lột xác tất yếu, là sự vùng lên phản kháng mạnh mẽ, khẳng định cái thiện tất sẽ không bao giờ bị hủy diệt và luôn luôn chiến thắng cái ác. Sự mạnh mẽ, dứt khoát, thông minh của Tấm sau khi sống lại mới là một đức tính cần có của người mẫu nghi thiên hạ, chỉ khi nàng trở nên cứng rắn, tự bảo vệ được mình thì nàng mới có được hạnh phúc đích thực. Bởi rõ ràng trong suốt quá trình, khi nàng mới về làm hoàng hậu, dù được vua yêu thương, nhưng bản thân nàng cũng phải chịu cái chết oan ức, vua cũng không tìm cách điều tra nguyên nhân mà dễ dàng cho Cám vào cung thế vị trí của chị.
Tấm Cám là một câu chuyện cổ tích hay và lâu đời có nhiều ý nghĩa giáo dục xoay quanh cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, răn dạy con người phải sống lương thiện, không nên làm những việc sai trái, tước đoạt đi vật chất, quyền lợi và cả tính mạng của người khác. Bên cạnh đó nhân vật cô Tấm là một nhân vật có ý nghĩa lớn, đầu tiên người ta ấn tượng với những vẻ đẹp của sự chăm chỉ, hiền lành, biết nhẫn nhịn, sau đó là sức sống tiềm tàng mạnh mẽ thông qua những lần tái sinh chuyển kiếp. Đồng thời là sự trưởng thành trong suy nghĩ, sự cứng rắn trong nội tâm, cũng như sự phản kháng, trả thù mạnh mẽ những kẻ đã gây ra đau khổ cho mình. Khẳng định quy luật muôn đời rằng cái thiện sẽ luôn chiến thắng cái ác dù đó là trong sự vùi dập cường đại của kẻ xấu hay bất kỳ hoàn cảnh khó khăn ngặt nghèo nào.
Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 4
Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 3Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 4
Truyện cổ tích Tấm Cám thuộc tiểu loại cổ tích thần kì, với kiểu nhân vật người con riêng chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh rất phổ biến trong kho tàng truyện cổ tích thế giới. Tấm là hình ảnh tiểu biểu cho kiểu nhân vật này, sau quá trình đấu tranh không khoan nhượng với cái ác cô đã giành được hạnh phúc về cho mình.
Tấm hiện lên với nhiều phẩm chất tốt đẹp, trước hết Tấm là cô gái chăm chỉ, thảo hiền. Tấm mồ côi cả cha và mẹ, từ nhỏ đã thiếu thốn tình yêu thương. Tấm là cô gái chăm chỉ, hiền lành, mọi việc trong nhà đều một tay cô làm: “hết chăn trâu gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo; đêm lại còn xay lúa giã gạo”, trong lần đi bắt tép cùng Cám, Tấm nhanh nhẹn, tháo vát bởi vậy mà chẳng mấy chốc cô đã lấy đầy giỏ tép. Không chỉ vậy Tấm còn lương thiện, biết chia sẻ với cả những sinh linh bé nhỏ nhất. Được bụt cho con cá Bống, cô nhường cơm, chăm sóc Bống như người bạn. Bống chính là chỗ dựa tinh thần để cô bớt cô đơn sau những giờ phút làm việc cực nhọc.
Ngoài ra ta cũng cần thấy, Tấm còn là người con hết sức hiếu thảo. Thân tuy là hoàng hậu, nhưng ngày giỗ cha nàng vẫn về nhà làm giỗ, không chỉ vậy nàng còn đích thân leo lên cây cau để hái cau xuống thắp hương cho cha. Điều đó cho thấy tấm lòng chân thành, hiếu thảo của Tấm với người bố đã mất. Mặc dù mang trong mình nhiều phẩm chất tốt đẹp để được hưởng cuộc sống hạnh phúc, nhưng cuộc đời Tấm lại chịu rất nhiều bất công. Sự bất công trước hết thể hiện trong phạm vi gia đình, nếu như Cám chỉ mải rong chơi thì Tấm lại là người gánh vác tất cả công việc trong nhà, nàng làm đến khuya vẫn chưa hết việc. Tấm bị bóc lột sức lao động. Không chỉ vậy nàng còn bị tước đoạt niềm vui, bị Cám cướp công giành được cái yếm đỏ; bị mẹ con Cám âm mưu giết chết bống – người bạn tinh thần giúp cô khuây khỏa nỗi lòng. Hình ảnh cục máu nổi lên cho thấy nỗi oan khuất hận thù, Tấm bật khóc nức nở và được Bụt hiện lên giúp đỡ. Sự bất công tiếp tục tăng lên, trong ngày hội, vì ghen ghét mẹ Cám không muốn cho Tấm đi hội, đã trộn thóc với gạo bắt Tấm nhặt riêng mỗi loại rồi mới cho Tấm đi dự hội.
Là người mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp, nên khi gặp những khó khăn, Tấm luôn được Bụt hiện lên giúp đỡ. Lần là đền bù phần thưởng bằng chú cá bống. Lần giúp Tấm có quần áo đẹp đi hội. Cùng bởi là người hiền lành, nên nhất định Tấm sẽ có kết cục hạnh phúc, bởi vậy khi đi qua chỗ lội nàng đánh rơi giày xuống nước, nhà vua nhặt được chiếc giày xinh xắn, ban lệnh ướm thử, Tấm thử vừa như in và trở thành hoàng hậu. Như vậy, nàng Tấm chịu qua bao nhiêu bất hạnh cuối cùng đã có một kết cục viên mãn.
Bên cạnh đó Tấm còn là người có sức sống mãnh liệt, có ý thức đấu tranh giành lại sự sống và hạnh phúc, điều này được thể hiện rõ nhất ở chặng thứ hai của truyện. Chặng thứ hai giúp cho câu chuyện Tấm Cám trở nên sâu sắc, giàu ý nghĩa hơn những câu chuyện cổ tích khác trên thế giới. Nếu như nàng Lọ Lem, chỉ dừng lại ở việc ướm giày xong và thành hoàng hậu sống một cuộc đời hạnh phúc, mẹ con dì ghẻ trốn biệt, không còn gặp lại nữa. Còn mẹ con Cám không chỉ ghen tị mà còn vô cùng độc ác, bức tử Tấm hết lần này đến lần khác. Bởi vậy, Tấm phải trải qua rất nhiều biến cố khác nhau để đến được bến bờ hạnh phúc.
Tấm tuy đã là hoàng hậu nhưng vẫn là một cô gái hiếu thảo, nàng vẫn về nhà và leo lên cây cau hái cau để thắp hương cho cha. Ở dưới, dì ghẻ đã đang tâm chặt gẫy cây, Tấm ngã xuống ao chết, cái ác đã được nâng lên một cấp độ mới, sẵn sàng giết chết người khác để thỏa mãn mong muốn của bản thân. Nhưng chính giây phút bị bức hại ý thức trong Tấm đã bừng tỉnh, đúng như nhận xét của nhà nghiên cứu Bùi Mạnh Thị: “Thật kì lạ khi thể xác của cô Tấm bị giết hại thì ý thức của cô thức tỉnh. Dường như có một cô Tấm khác sống dậy không phải để bưng mặt khóc, để bị lừa dối mà tỉnh táo nhận diện, vạch mặt kẻ thù, để tìm lại hạnh phúc đã mất và tự tay trả thù”. Nếu như ở phần trước của truyện Tấm thụ động, mềm yếu chỉ biết bưng mặt khóc mỗi khi bị áp bức, và nhờ sự trợ giúp của Bụt thì đến chặng thứ hai cô Tấm trở nên kiên cường, chủ động biến hóa từ kiếp này sang kiếp khác, đấu tranh kịch liệt với kẻ thù để giành hạnh phúc. Tấm biến hóa thành: chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi với lời đe dọa Cám: “Cót ca cót két/ Lấy tranh chồng chị/ Chị khoét mắt ra”. Và cuối cùng Tấm đã dành được hạnh phúc vốn thuộc về mình, mẹ con Cám bị trừng phạt, công lí dân gian đã được thực hiện: “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật thành công, mang tính khái quát cao, biểu trưng cho một kiểu người trong xã hội. Tính cách nhân vật chủ yếu bộc lộ qua hành động. Cốt truyện đa tình tiết, phát triển tự nhiên, hợp lí, ngoài ra kết cấu hai phần sáng rõ cho thấy sự phát triển trong tính cách nhân vật. Ngoài ra cần phải kể đến những yếu tố, nhân vật thần kì làm phù trợ cho nhân vật chính, đây cũng là yếu tố làm tăng sức hấp dẫn cho tác phẩm.
Qua tác phẩm ta thấy Tấm hiện lên với những phẩm chất vô cùng đẹp đẽ: hiền lành, chăm chỉ, hiếu thảo nhưng lại chịu nhiều bất công. Nhưng bằng quá trình đấu tranh không khoan nhượng với cái ác cô đã giành được hạnh phúc vốn có của mình. Tấm là nhân vật tiêu biểu thể hiện quan niệm, triết lí: “ở hiền gặp lành” của ông cha ta.
Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 2Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 3
Chẳng phải ngẫu nhiên mà Lâm Thị Mĩ Dạ đã viết:
Tôi yêu chuyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Bởi lẽ, từ khi chúng ta còn thơ bé đã thấm nhuần những câu chuyện cổ của bà của mẹ. Trong số đó, cô Tấm diu hiền trong truyện cổ tích “Tấm Cám” luôn là hình mẫu lí tưởng để chúng ta ao ước.
Trong truyện, cô Tấm là từ một cô gái mồ côi mà trở thành hoàng hậu. Từ nhỏ đã mất mẹ, cha lại lấy vợ rồi mất sớm, Tấm sống chung với mẹ ghẻ và con của mụ là Cám. Cuộc sống của Tấm bên cạnh mẹ con Cám là một chuỗi ngày cực nhọc, vất vả. Sáng thái khoai, chiều lạ chăn trâu, hầu như ở nhà có việc gì nặng nhọc Tấm đều phải làm hết. Còn Cám chỉ đủng đỉnh ăn chơi tối ngày. Vậy mà cô Tấm chăm chỉ chưa bao giờ than vãn. Nhưng ngay khi chăm chỉ làm việc, cô Tấm cũng bị cướp mất thành quả lao động của mình là chiếc yếm đỏ. Nghe lời mụ dì ghẻ, ai bắt được nhiều tôm tép hơn thì sẽ được thưởng chiếc yếm đỏ. Đó quả là niềm ao ước với cô gái vẫn ngày ngày đầu tắt mặt tối làm việc. Tấm chăm chỉ mò cua bắt tép, do đã quen mà chỉ một lúc đã đày giỏ.
Còn Cám chỉ mải chơi, dạo hết ruộng nọ đến ruộng kia. Tấm vì thật thà, cả tin mà bị Cám lừa gạt lấy mất giỏ tép, cướp luôn yếm đỏ. Tủi thân, Tấm bưng mặt khóc. Sự buồn tủi của cô gái nhỏ đã được bụt giúp đỡ. Khi bụt lên đã trao cho Tấm một người bạn tinh thần vô cùng quý giá. Đó chính là con cá bống. Với một cô gái luôn buồn khổ và cô đơn, bị đối xử tệ bạc như Tấm, cá bống quả là một người bạn vô giá. Hằng ngày, để nuôi sống người bạn đó, Tấm chia phần thức ăn ít ỏi của mình cho Bống, tâm sự với Bống. Tưởng chừng cuộc sống của Tấm dù thiệt thòi nhưng sẽ được yên ổn. Vậy mà, mụ dì ghẻ và Cám lại ghen ghét, ăn thịt mất cá bống. Tấm tủi thân cũng chỉ biết khóc. Bụt liền bày cách chôn xương bống cho Tấm. Tấm răm rắp nghe thôi mà không hay biết rằng những hành động vô tư, chân thành của mình sẽ đem lại những điều bất ngờ sau này.
Cuộc sống của Tấm sẽ chẳng thay đổi nếu như không có yến hội do nhà vua tổ chức. Như bao cô gái khác, Tấm cũng ao ước được đi xem hội. Vậy mà mẹ con Cám nỡ nhẫn tâm cướp mất niềm vui tinh thần đó, hành hạ Tấm bằng cách trộn thóc với gạo và bắt Tấm nhặt, nhặt xong mới được đi chơi. Điều này quả thật là quá sức với cô gái. Tấm lại bưng mặt khóc nức nở. Lúc này Bụt hiện lên và giúp Tấm. Sự chân thành, chăm chỉ thật thà của Tấm đã khiến cô được sự giúp đỡ, được đi chơi hội. Đến chỗ lội, Tấm vì vội vàng mà đánh rơi chiếc giày. Và như một phần thưởng cho cô gái hiền lành, nết na, nhà vua nhặt được chiếc giày và quyết tâm lấy chủ nhân của chiếc giày làm vợ. Cô Tấm từ một cô gái nghèo khổ đã trở thành hoàng hậu trong sự hằn học của mẹ con Cám.
Nếu dừng lại ở đây thì Tấm Cám sẽ rất giống với mô típ lọ lem của các nước trên thế giới. Nhưng phần sau của “Tấm Cám” mới là sự sáng tạo tài tình của nhân dân ta. Hạnh phúc không phải dễ dàng có được, không phải chỉ do Bụt, do may mắn mà có mà con người phải tự đấu tranh để giành lấy. Tấm trở thành vợ vua nhưng vẫn hiếu thảo như xưa. Nàng về quê giỗ cha những không ngờ mẹ con Cám đã giăng bẫy sẵn nhằm giết hại Tấm. Chặt cau khiến Tấm ngã xuống ao chết, cái ác là mẹ con Cám đã đi đến tận cùng. Nếu khi xưa, chúng cướp đi vật chất, tinh thần của cô Tấm thì bây giờ nhẫn tâm cướp đi cả tính mạng của người khác.
Cũng từ đây, Cô Tấm hóa kiếp nhiều lần để đòi lại hạnh phúc của mình. Hóa thành chim vàng xanh quấn quýt bên vua, hóa thành cây xoan đào che bóng mát cho người chồng yêu quý, rồi hóa thành khung cửi để chửi rủa Cám. Mỗi lần, cô Tấm càng mạnh mẽ nhẫn nại bao nhiêu thì mẹ con Cám lại càng nhẫn tâm, tàn ác quyết giết hại Tấm bấy nhiêu. Cuối cùng, cô Tấm náu mình trong quả thị ở cùng với bà hàng nước. Rồi như một sự sắp đặt của ý trời và duyên phận. Nhà vua tìm thấy Tấm khi ghé qua quán nước của bà cụ tốt bụng. Tấm trở cung tìm lại hạnh phúc của mình.
Đáng nói nhất chính là phần kết truyện có nhiều dị bản. Trong đó Tấm dội nước sôi Cám hay làm mắm Cám gửi về cho mụ dì ghẻ. Cũng có bản, cô Tấm tha chết cho mẹ con Cám nhưng sau đó bọn chúng cũng bị ông trời trừng phạt. Xoay quanh mỗi cái kết có nhiều ý kiến trái chiều. Tuy nhiên, dù ở cái kết nào, thì dụng ý của nhân dân ta xưa vẫn mong cô Tấm có thể bảo vệ hạnh phúc của mình và cái ác phải bị trừng trị. “Tấm Cám” là truyện cổ tích thần kì với nhân vật Tấm tiêu biểu cho sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người dân lao động.
Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 1Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 2
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, có rất nhiều câu chuyện cổ tích hay, để lại nhiều bài học sâu sắc và ý nghĩa cho con người về đạo lý, tình người, về phong cách sống, những quan niệm về thiện luôn luôn chiến thắng cái ác, hướng con người đến chữ “thiện” cao đẹp. Truyện Tấm Cám là một trong số những tác phẩm như thế, nhân vật cô Tấm là điển hình cho vẻ đẹp của phụ nữ Việt Nam, vừa đẹp người lại đẹp nết, dù sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn giữ được tính cách nhân hậu, đảm đang, chính vì thế nàng đã có được hạnh phúc sau cùng.
Cuộc đời của cô Tấm được chia ra làm hai phần chính là trước khi vào cung làm hoàng hậu và sau khi vào cung làm hoàng hậu. Và trong cả hai quá trình áy cô Tấm đều gặp rất nhiều khó khăn, vất vả do bàn tay độc ác của mẹ con nhà Cám gây nên. Tấm từ nhỏ đã gặp nhiều bất hạnh, vốn sinh ra trong môt gia đình không mấy khá giả, mẹ mất từ khi Tấm còn nhỏ xíu, cha lại cũng không thương yêu mà vội đi lấy vợ khác, sinh thêm cho Tấm một đứa em là Cám. Kể từ đây cuộc đời Tấm bắt đầu bước vào chuỗi ngày cực khổ không tả xiết, đặc biệt là từ khi cha mất, dì ghẻ lại càng được nước lấn tới hành hạ Tấm, bắt Tấm làm những công việc đồng áng nặng nhọc, còn bản thân mẹ con họ thì ăn trắng mặc trơn.
Tấm trở thành người ngoài ngay trong chính căn nhà của mình, thật bất hạnh biết bao. Thế nhưng Tấm là người chịu thương chịu khó, rất ngoan ngoãn nghe lời mẹ kế, chăm chỉ làm việc, dần dần trưởng thành, trở thành một thiếu nữ xinh đẹp. lại nết na, đảm đang. Còn ngược lại Cám chỉ biết lười biếng, lại còn hay ghen ghét với chị dù được sống sung sướng. Trong truyện những mâu thuẫn đầu tiên của Tấm và Cám bắt nguồn từ việc dì ghẻ sai hai chị em đi xúc tép, ai xúc được nhiều thì dành cho cái yếm đỏ. Các cô gái trẻ thời xưa thì được cái yếm mới có màu sắc sặc sỡ như thế thì thích lắm, một người vốn hiền lành chẳng tranh giành như Tấm cũng vô cùng ao ước có được cái yếm đỏ ấy.
Thế nên Tấm ra sức cần mẫn xúc thật nhiều tép, chẳng mấy chốc mà Tấm đã đầy giỏ, ngược lại cô Cám vì lười lại thêm không khéo léo nên chẳng xúc được con nào. Nhưng vốn là con người láu cá, ranh ma biết tỏng Tấm là người thật thà, lương thiện nên Cám đã lừa Tấm đi gội đầu để trút hết cả tép của Tấm, rồi về và chiếm lấy cái yếm đỏ, theo lô gic thông thường chắc chắn bà dì ghẻ biết được việc làm của Cám nhưng vẫn mắt nhắm mắt mở bởi Cám là con ruột của bà ta, mà có khi cho dù Tấm có mang được giỏ tép về thật thì chưa chắc đã có được cái yếm. Chung quy lại tấm lòng thật thà chất phác của Tấm thật phí phạm cho mẹ con nhà này. Ngược lại cô Tấm sau khi phát hiện mình bị lừa, thì bất lực chỉ biết ngồi khóc mà không thể làm gì hơn, bởi cô hiểu quá rõ hai mẹ con nhà Cám, chắc chắn cô không thể đòi lại công bằng cho mình và lâu dần những chuyện như này đã trở nên quen thuộc với Tấm, Tấm chỉ biết nhẫn nhịn, cô khóc vì thương tấm thân mình bất hạnh, khổ sở chứ không phải vì không được cái yếm đỏ.
Nhưng có lẽ thấu hiểu được tấm lòng của Tấm, nên trời đã phái Bụt xuống chỉ cho Tấm đem con cá bống về nuôi. Mặc dù không biết nuôi để làm gì nhưng với lòng tin vào sự nhân hậu của Bụt, niềm yêu thương động vật, con cá Bống như là niềm an ủi nhỏ nhoi cho sự bất hạnh của Tấm, giúp Tấm nguôi ngoai nỗi buồn và có thêm một người bạn tâm tình mỗi khi Tấm bế tắc. Dù chỉ là một chú cá nhỏ nhưng Tấm dành cho nó rất nhiều tình yêu thương, tựa như đứa em của mình vậy, Tấm vốn không được yêu thương, nên phần cơm ăn cũng ít, nhưng nàng vẫn chia nửa số cơm của mình để chăm Bống, chính vì vậy Bống lớn nhanh như thổi. Những tưởng Bống sẽ theo Tấm bầu bạn mãi mãi, nhưng không ngờ mẹ con Cám đã sớm theo dõi Tấm từ lâu, đang tâm lừa Tấm đi chăn trâu ở đồng xa, rồi ở nhà giết thịt cá Bống.
Xét kỹ hai mẹ con Cám không phải chỉ vì ham ăn thịt con cá Bống mà tất cả chỉ vì xuất phát từ lòng ghen ghét đố kỵ, đang tâm hành hạ tinh thần Tấm, nên mới giết đi vật nuôi của nàng, thật sự rất đáng ghét. Cô Tấm thật thà nghe lời đi làm lụng vất vả, tối về thì lại phát hiện cá đã chết, chỉ còn lại cục máu nổi lềnh phềnh dưới giếng, đây quả thực là cú sốc tinh thần cho Tấm, bởi bấy lâu nay Tấm yêu thương chăm bẵm Bống như người thân ruột thịt vậy mà giờ nó lại bị giết hại một cách tàn nhẫn. Cũng như mọi khi Tấm lại gục mặt xuống khóc nức nở, Bụt hiện ra chỉ cho Tấm nhặt lấy xương của Bống bỏ vào lọ chôn ở chân giường. Tấm không hiểu tại sao lại làm vậy, nhưng cô cũng không hỏi mà chỉ lẳng lặng làm theo, một phần vì xót thương Bống, một phần có lẽ Tấm cũng hiểu được rằng lời của Bụt ắt có huyền cơ, không nên tò mò quá nhiều, tò mò sẽ hại chết con mèo.
Điều đó càng chính tỏ Tấm là con người ngay thẳng, hiền hòa, một lòng tôn kính và tin tưởng thần phật. Chính vì tấm lòng lương thiện, tinh thần chịu thương chịu khó nhưng lại gặp phải nhiều trớ trêu bất hạnh, nên cuối cùng Tấm cũng đã được đền đáp. Ngày Vua mở hội chọn Hoàng hậu, Tấm bị ép ở nhà nhặt đậu, lúc này đây thâm tâm người thiếu nữ vừa bất lực vì một công việc lạ lùng ắt chỉ để hành hạ nàng, vừa đau khổ vì đến cả quyền mưu cầu hạnh phúc như những cô con gái khác nàng cũng không có được. Nàng lại gục đầu xuống khóc, Bụt lần nữa hiện ra, sai chim giúp nàng nhặt đậu chỉ nàng đào xương cá lấy đồ đẹp mặc đi dự hội. Ôi thế hóa ra bao nhiêu công sức của Tấm bấy lâu nay cuối cùng cũng đã được đền đáp, Tấm cuối cùng cũng có một lần hạnh phúc rồi. Như ý nguyện Tấm được vua chọn vào cung trở thành mẫu nghi thiên hạ, vua cũng hết lòng yêu thương Tấm vì nàng vừa đẹp người lại đẹp cả nết.
Sau khi đã trở thành hoàng hậu, cuộc đời Tấm đã bước sang một trang mới, nhưng nàng vẫn giữ được cho mình những đức tính tốt đẹp vô cùng, đặc biệt là tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ. Ngày giỗ cha, mặc dù có thể để kẻ hầu người hạ hái cau để cúng, nhưng nàng vẫn tự mình trèo cây để tỏ lòng thành. Đáng tiếc thay tấm lòng ấy của Tấm lại bị chính mẹ con Cám lợi dụng mưu hại Tấm, nhằm thay thế vị trí của Tấm trong cung. Một điểm mới lạ ở nhân vật Tấm là sau khi trở thành hoàng hậu và chết đi, dường như sự mạnh mẽ trong ý thức của Tấm mới có cơ hội thực sự sống dậy. Tấm không còn là người con gái chỉ biết ôm mặt khóc khi gặp khó khăn mà đã trở nên mạnh mẽ, sẵn sàng trả thù, đòi lại công bằng khi bị kẻ khác hãm hại. Tiêu biểu là việc hóa thành chim vàng anh làm bạn với vua, khiến vua yêu thích không rời, mà bỏ mặc Cám, sau đó lại mọc thành cây xoan đào đẹp đẽ, vua yêu thích mắc võng nằm nghỉ ngơi, khiến Cám đố kị không thôi.
Đến khi cây bị chặt làm khung cửi, hồn Tấm vẫn hiện về cảnh cáo, đe dọa Cám rằng: “Kẽo cà kẽo kẹt, lấy tranh chồng chị chị khoét mắt ra”. Cám sai người đốt khung cửi chỗ tro than đó lại mọc thành cây thị, cây thị có độc một quả, quả ấy là hóa thân của nàng Tấm, như vậy sức sống của nàng Tấm mãnh liệt, không ngừng nghỉ dù nhiều lần bị Cám tàn ác ra tay trừ khử, nhưng cuối cùng nhờ tấm chân tình, sự kiên trì mạnh mẽ, Tấm và hoàng thượng vẫn nhận ra nhau nhờ miếng trầu têm cánh phượng xinh đẹp.
Cuối truyện có nhiều người nhận xét rằng, thực ra Tấm cũng không phải là người nhân từ gì cho cam, cũng độc ác khi cho người dội nước sôi xử chết Cám, một số kết khác thậm chí Tấm còn sai người lấy thịt Cám làm mắm cho dì ghẻ ăn để trừng phạt. Qủa thực đó là những việc vô cùng tàn nhẫn, nhưng xét vào bối cảnh thời phong kiến, việc ra tay trừng trị như vậy là hoàn toàn có thể, đặc biệt Cám đã gây ra biết bao tội lỗi với Tấm, biết bao lần hành hạ trù dập, thậm chí là giết cả chị, rồi tranh cả chồng của chị. Xét về đạo đức quả thật Cám là người vô sỉ, tội chồng tội, bị chết cũng đáng lắm. Nếu như cô Tấm tiếp tục nhân từ không xử chết Cám, thì biết đâu một ngày nào đó người phải chết lại chính là nàng, Tào Tháo từng có câu rất kinh điển: “Nhân từ với kẻ thù chính là tàn nhẫn với bản thân”, quả đúng trong trường hợp này.
Như vậy cô Tấm là tổng hòa của những vẻ đẹp và phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, nhân hậu, hiếu thảo, chịu thương chịu khó, nhẫn nhịn. Sau khi trải qua nhiều sóng gió từ một cô gái yếu đuối ngây thơ Tấm đã vùng lên chống lại cái ác, với sức sống mãnh liệt, tình cảm thủy chung son sắt với hoàng thượng. Đồng thời sẵn sàng ra tay trừng phạt kẻ thủ ác. Câu chuyện nhằm hướng con người đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống, răn dạy con người về việc “gieo nhân nào gặp quả ấy”, cái thiện luôn luôn chiến thắng cái ác, hướng con người ta sống với những phẩm chất tốt đẹp, tránh xa thói vị kỷ, ghen ghét đố kỵ và ám hại lẫn nhau trong xã hội.
Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” số 1
Dù ở kiếp hóa thân nào bị giết đi sống lại nhiều lần nhưng nhân vật Tấm vẫn là một người xinh đẹp, nết na mang đức tính cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa, là nhân vật có vẻ đẹp hơn người và xứng đáng có một cuộc sống hạnh phúc.
Đăng bởi: Hà Thị Thanh Phương
Từ khoá: 10 Bài văn phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” hay nhất
Văn Mẫu Lớp 10: Phân Tích Nhân Vật Khách Trong Phú Sông Bạch Đằng 2 Dàn Ý &Amp; 11 Bài Phân Tích Nhân Vật Khách
Dàn ý phân tích nhân vật Khách
1. Mở bài
– Giới thiệu về Trương Hán Siêu, tác phẩm Phú sông Bạch Đằng (hoàn cảnh ra đời của bài phú), giới thiệu về hình tượng nhân vật khách.
2. Thân bài
– Hình tượng nhân vật khách: tư thế của một con người có tâm hồn khoáng đạt.
Khách dạo chơi phong cảnh không chỉ để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên mà còn nghiên cứu cảnh trí đất nước, bồi bổ tri thức.
Hoài bảo lớn lao: “Nơi có … chẳng biết”; “Đầm Vân Mộng chứa ……vẫn còn tha thiết”.
– Tráng chí của khách được gợi lên qua hai loại địa danh:
Địa danh trong điển cố Trung quốc: rong chơi bể lớn, Sông Nguyên, Tương, Vũ huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ,Tam Ngô, Bách Việt – những vùng đất nổi tiếng, khách đã đi qua bằng sách vở.
Địa danh thứ hai là những địa danh đất Việt, với không gian cụ thể: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng là hình ảnh hiện tại mang tính đương đại hiện ra trước mắt
Cảnh sắc thiên nhiên hiện lên hùng vĩ hoành tráng “Bát ngát sóng kình muôn dặm – thướt tha đuôi trĩ một màu”.
Song cũng ảm đạm, hắt hiu “bờ lau san sát, bến lách đìu hiu – Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”.
– Nghệ thuật: lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động, vừa gợi hình sắc trực tiếp, vừa mang ý nghĩa khái quát, tính triết lý, ngôn từ trang trọng, hào hùng, vừa lắng đọng,gợi cảm.
3. Kết bài
– Với hình tượng nhân vật khách, bài phú thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống anh hùng và tư tưởng nhân văn cao đẹp. Sự hoài niệm về quá khứ là niềm tự hào về truyền thống dân tộc của tác giả.
Dàn ý hình tượng nhân vật KháchI. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Trương Hán Siêu và tác phẩm Bạch Đằng giang phú
– Khái quát chung về nhân vật “khách”: Là hình tượng quan trọng trong bài, là sáng tạo nghệ thuật của tác giả để gửi gắm tình cảm, cảm xúc, tư tưởng.
II. Thân bài
1. Hình tượng khách với những cuộc ngao du.
– Khách là hình tượng quen thuộc trong thể phú bởi thể loại này thường có lối đáp chủ – khách. Khách chính là sự phân thân của tác giả để thể hiện tâm hồn, tình cảm, tư tưởng.
– Tâm hồn tự do, phóng khoáng: Giương buồm, giong gió, lướt bể, chơi trăng, mải miết.
– Có vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng: Các địa danh Trung Quốc – Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng đều được tác giả biết đến qua sách vở, qua sự tưởng tượng.
– Có tình yêu thiên nhiên, thiết tha với quê hương, đất nước với quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc: Một loạt các danh lam thắng cảnh của Đại Việt – Đại Than, Đông Triều và dừng chân ở Bạch Đằng, dòng sông của chiến công lịch sử vẻ vang của dân tộc.
– Tâm hồn say mê, chủ động đến với thiên nhiên: Cách nói cường điệu “sớm Nguyên Tương – chiều Vũ Huyệt”, hành trình dài được khách thực hiện trong một ngày. Không gian, thời gian của cuộc hành trình đã nâng cao tầm vóc của khách.
2. Hình tượng khách qua những cảm xúc trước cảnh sông Bạch Đằng.
– Cảnh sắc thiên nhiên trên sông Bạch Đằng: Hùng vĩ, tráng lệ “sóng kình muôn dặm, đuôi trĩ một màu”, thơ mộng, trữ tình “ba thu, nước trời một sắc”, hoang vu, hiu hắt “san sát, đìu hiu, giáo gãy, xương khô”.
– Tâm trạng của khách:
+ Phấn khởi, thích thú khi đứng trước cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng mà thơ mộng
+ Buồn thương, tiếc nuối trước cảnh vật đổi thay, cho những người đã ngã xuống
+ Tư thế “đứng lặng giờ lâu” cho thấy tâm thế đắm chìm vào cảm xúc buồn thương, tiếc nuối của khách.
→Khách có những phát hiện tinh tế, cụ thể vẻ đẹp cảnh sắc phong phú, đa dạng của sông Bạch Đằng
→Là con người yêu thiên nhiên, tự hào về những cảnh sắc hào hùng gắn với lịch sử dân tộc
3. Hình tượng khách và niềm tự hào về những chiến công của quá khứ.
– Khách không trực tiếp tham gia vào câu chuyện của các vị bô lão nhưng câu chuyện về những chiến công vẻ vang của một thời lịch sử oanh liệt gắn với con sông Bạch Đằng đã gieo vào trong đầu khách niềm tự hào, niềm kiêu hãnh về quá khứ hào hùng của dân tộc.
– Khách đồng tình với các vị bô lão trong việc lí giải nguyên nhân của chiến thắng do thiên thời – địa lợi – nhân hòa và đặc biệt nhấn mạnh yếu tố con người. Cho thấy cái nhìn xa trông rộng đậm màu nhân văn của các bô lão và khách.
4. Hình tượng khách qua sự suy ngẫm về hưng vong của đất nước.
– Khách đã trực tiếp bày tỏ suy nghĩ của mình
– Ca ngợi dòng sông Bạch Đằng – chứng nhân lịch sử
– Ca ngợi hai vị thánh quân tài năng, đức độ
– Ca ngợi cuộc sống thanh bình của dân tộc
→Khẳng định tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước của khách.
5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
– Khắc họa suy nghĩ, hành động nhân vật.
– Sử dụng phép liệt kê, phóng đại, ẩn dụ
– Ngôn ngữ trang trọng, hàm súc
– Cách kể và tả ngắn gọn nhưng giàu sức biểu đạt.
III. Kết bài
– Khái quát nội dung và nghệ thuật xây dựng nhân vật
Cảm nhận về nhân vật Khách trong bài Phú sông Bạch ĐằngNếu như Lê Quý Đôn từng khen phú đời Trần: “khôi kì, hùng vĩ, lưu loát, đẹp đẽ, âm vận, cách điệu giống như thể văn nhà Tống”, thì điều đó thật đúng đối với Bạch Đằng giang phú. Bài phú sử dụng nhiều hình ảnh, điển tích chọn lọc, kết hợp với sự sáng tạo hình tượng nhân vật “khách” một nhân vật đại diện cho hiện tại, cho sự phân thân của cái tôi tác giả, một cái tôi tráng sĩ của đất nước.
Phú Sông Bạch Đằng thể hiện tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào về một dân tộc có tinh thần kiên cường, bất khuất, mưu lược cũng như nêu cao tinh thần, ngợi ca tấm lòng và khẳng định vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.
Mở đầu là con người ung dung, tự tại, đam mê say đắm cảnh sắc thiên nhiên :
Khách đi để mở mang, để du ngoạn nơi biển lớn, sông hồ và những vùng đất nổi tiếng:
Trong những dòng thơ đầu tiên, tác giả đặc biệt tạo ấn tượng về chiều sâu trong bề dày lịch sử của Bạch Đằng giang. Đó vừa là dòng sông địa lý, vừa là dòng sông lịch sử với bao lớp sóng lớn trùng điệp. Điều đáng lưu ý là ngoài vẻ thiêng liêng hùng vĩ, sông Bạch Đằng còn nên thơ và trữ tình, nó dịu dàng e ấp như những nàng thơ, nó thơ mộng nên duyên với sóng nối sóng, với thuyền bè nối đuôi nhau trôi dập dềnh trên sông. Người xưa thường nói tức cảnh sinh tình, có lẽ bởi thế mà đứng trước thiên nhiên vừa nên thơ vừa trữ tình ấy khiến lòng người rạo rực, khiến nỗi buồn niềm vui như lẫn lộn. Nơi chiến trường ta từng chiến đấu và chiến thắng, nơi trận thủy chiến lừng lẫy trong lịch sử nhưng kể sao cho hết những hi sinh mất mát với báo giáo gãy, bao máu và mồ hôi đã đổ xuống xương khô. Đất trời cũng như hiểu lòng người, lau lách như thể trở về quá khứ, gợi lại những ngày chiến đấu căng thẳng để thế hệ hôm nay không tránh khỏi động lòng tiếc nuối, xót thương cho bao anh hùng đã khuất.
Người “tráng chí bốn phương” với tâm hồn lúc nào cũng “vẫn còn tha thiết”:
Đoạn đầu này sử dụng triệt để thủ pháp tượng trưng. Cái “tráng chí bốn phương” của khách được dựng nên bằng những địa danh. Có loại địa danh gợi ra thời gian quá khứ xa xăm :
Ta để ý nếu ở phần trên, các địa danh thực ra đều là ảo thì đến đây mới là địa danh thực mà tác giả đã trực tiếp đặt chân như cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng (Sông Bạch Đằng có nguồn chính chảy từ sông Lục Đầu, xưa gọi là cửa Bạch). Hai chi lưu là sông Chanh dài khoảng 18km với dòng chính đổ ra cửa Nam Triệu. Trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi từng mô tả: “Sông Vân Cừ (tức sông Bạch Đằng) rộng 2 dặm linh 69 trượng, sâu 5 thước, núi non cao vót, nước suối giao lưu, sóng tung lên tận trời, cây cối lấp bờ, thật là nơi hiểm yếu”. Không chỉ vậy ngày nay dòng sông này vẫn còn tên bến Rừng, phà Rừng trên đường sang Hải Phòng. Người Quảng Yên trước đây từng lưu truyền câu “Con ơi, nhớ lấy lời cha/ Gió nồm, nước rặc chớ qua sông Rừng” để nói lên sự hiểm yếu của sông là vậy.) Nhà thơ đưa ra một cái tên Bạch Đằng mang trong mình dấu mốc lịch sử của trận thủy chiến với những chiến công vang dội của nó.
Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để nổi bật sự thảnh thơi của nhân vật trữ tình nổi tiếng tính tình cương trực, tâm hồn phóng khoáng. Điều đó hoàn toàn phù hợp với đặc điểm phóng khoáng hào mại của khách. Nói cách khác nhân vật khách cũng chính là “cái tôi” tác giả. Đó là những cá nhân sôi nổi, ham hiểu biết, muốn di dưỡng tinh thần, sống cuộc đời tự do tự tại. Như vậy, khách được giới thiệu bằng tất cả niềm trân trọng như cách tác giả tự khẳng định, tự giới thiệu mình: một hồn thơ hào sảng, một khách hải hồ cũng là kẻ sĩ luôn một lòng thiết tha với đất nước, quê hương. Quả đúng, nhân vật khách có tính chất công thức của thể Phú vừa chân thực, vừa sinh động. Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng là những địa danh đặc biệt nổi tiếng mà khách đã đặt chân ngao du. Nếu như những địa danh của Trung Quốc thể hiện tráng chí bốn phương của khách, thì mỗi miền đất Việt ghi dấu bước chân người tráng sĩ này đều mang dấu ấn của trái tim sục sôi yêu nước.
Trước hình ảnh Bạch Đằng “bát ngát sóng kình muôn dặm” , “ thướt tha đuôi trĩ một màu” với “ nước trời…”, “ phong cảnh…”, “ bờ lau…”, “ bến lách…” như đẩy lòng người rơi vào bức tranh tâm trạng với nỗi buồn vui man mác. Vui khi thiên nhiên ấy, dòng sông ấy vẫn sống vĩnh hằng nằm ngoài sự băng hoại của thời gian, vui vì nó vẫn cuồn cuộn chảy dù mang trong mình bao dấu tích của cuộc chiến khắc nghiệt thế nhưng ta chợt thoáng buồn. Nỗi buồn khi yên bình hôm nay phải đánh đổi bằng máu xương của bao thế hệ cha anh đã nằm xuống, nỗi buồn vì trang sử hào hùng của dân tộc đã ghi hằn máu và nước mắt của biết bao trái tim quả cảm. Sự vấn vương ở đây có chút gì đó làm lòng ta nặng trĩu khi một phút trầm tư nhìn lại nhịp thời gian chảy trôi quá đỗi vô tình cũng như lòng người nhanh chóng đổi thay. Nói cách khác, những âm hưởng trữ tình đối lập ở trong tác phẩm đã tạo nên một ngân vang sâu thẳm và ngân vang này chính là triết lý: sự sống là một tiếp biến không ngừng không nghỉ, cái đang diễn ra và cái đã đi vào vĩnh cửu cứ đan quyện lấy nhau, mà cái nhân tố có khả năng kết nối làm nên sự đan quyện ấy, khiến cho sợi dây chuyền vô hình nghiệt ngã của thời gian có lúc tưởng như bị đảo ngược: hiện tại không hẳn đã trôi về quá khứ tất cả, mà có phần nào đó còn trôi theo chiều ngược lại, còn có “dấu vết lưu lại” với hậu thế.
Như vậy qua hình tượng nhân vật khách ta thấy chân lí : Hào kiệt đời nào cũng có, đó là sức mạnh, là niềm tin, cũng là niềm tự hào dân tộc tư tưởng nhân văn cao đẹp. Với tâm trạng hân hoan, khách vừa đề cao công lao to lớn của các vị anh hùng đời Trần, vừa bày tỏ niềm tin vào tương lai vững mạnh, trường tồn và nêu cao đức cao của dân tộc. Sức mạnh của non sông đất nước không phải ở địa thế hiểm trở mà nằm chính ở niềm tin và ý chí kiên gan bền bỉ của con người (Giặc tan muôn thuở thanh bình – Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao).
Câu từ đơn giản mà hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động, vừa gợi hình đặc sắc trực tiếp, vừa mang ý nghĩa khái quát triết lý, ngôn từ vừa trang trọng, hào sảng, là ngôi sao sáng ngời khẳng định chủ quyền dân tộc Việt Nam. Tác phẩm cũng thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc “khắc họa một cảnh trí mỹ lệ của Tổ quốc với cả hình bóng chiến công oanh liệt của quân dân ta thời trước”, là “một bài phú mẫu mực chẳng những thể hiện đậm nét hào khí Đông A của văn học thời trần mà còn có giá trị to lớn trong lịch sử văn học nước nhà.”.
Phân tích nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 2Người nghệ sĩ ra đi, nhưng tác phẩm anh để lại cho đời là bất tử. Và những tác phẩm lại sống trong lòng người đọc muôn thế hệ bằng những thông điệp nhân văn, bằng những hình tượng nghệ thuật giàu giá trị. Có thể nói, bài Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu đã xây dựng được một hình tượng nhân vật như thế trong dòng chảy lịch sử văn học Việt Nam. Hình tượng nhân vật khách.
Phú là một thể văn cổ, có những đặc điểm và quy phạm riêng, về mặt xây dựng nhân vật và hình tượng, thì trong bài phú nhân vật khách là một nhân vật được tác giả hư cấu, tưởng tượng, xây dựng theo hình thức đối đáp với một nhân vật nào đó (trong bài này là với các vị bô lão) Nhân vật khách trong bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là hình tượng trung tâm của toàn bộ tác phẩm, mạch chảy mạch kết cấu của văn bản theo toàn bộ những dòng suy tưởng, đó là sự bộc bạch cái tráng chí bốn phương tha thiết và là nỗi niềm về cả một thời dĩ vãng oanh liệt của dân tộc năm xưa trên sông Bạch Đằng.
Mở đầu bài phú, nhân vật khách xuất hiện như một bậc tao nhân mặc khách với tráng chí bốn phương ngao du sơn thủy, lấp đầy tâm hồn mình bởi vẻ đẹp tráng lệ, hùng vĩ của thiên nhiên non sơn kỳ thú:
Các từ “chơi vơi”, “mải miết” tạo cho người đọc một cảm giác mới mẻ về nhân vật khách, một bậc tài tử lãng du cùng với thú vui sơn thủy, đắm chìm trong không gian rộng lớn, thơ mộng khoáng đạt. Thiên nhiên mây, gió, trăng bỗng trở thành người bạn của nhân vật khách với thú vui tao nhã. Cách liệt kê một loạt những địa điểm nổi tiếng cho thấy khả năng đi nhiều, biết nhiều và tráng chí bốn phương của nhân vật khách, gợi nên một tâm hồn phóng khoáng, thích ngao du và mang vẻ đẹp lộng gió như được hơi thở của thiên nhiên đằm vào điệu tâm hồn nhân vật.
Tiếp tục người đọc nhận thấy rằng, trong rất nhiều điển tích điển cố, chỉ có điển tích Tử Trường được nhắc đến, nhưng sự gợi nhắc của tác giả ở đây không phải để nhấn mạnh về việc nhân vật khách học cách ghi chép sử ký, mà là học cái thú tiêu dao, ngao du sơn thủy của những bậc tài tử ngày trước.Đó không chỉ là việc trau dồi, học hỏi trong những hành trình đã đi qua, mà còn là sự chiêm nghiệm của nhân vật khách đầy sâu sắc về những thắng cảnh lịch sử của dân tộc. Cụ thể, là ở đoạn thơ sau, khi nhân vật khách hồi tưởng về quá khứ hào hùng mà cũng đầy bi thương của dân tộc.
Khác hẳn với không gian rộng lớn và khoáng đạt trên kia, cảnh vật giờ dường như đã hóa thảm sầu, nhuốm một màu buồn thấm lan tỏa lên toàn bộ bức tranh chung. Đó là niềm xót thương, cũng là sự câm lặng nén chặt đau thương khi nghĩ đến những người anh hung, những người chiến sĩ đã hi sinh, đã ngã xuống, đã hóa thân linh hồn mình vào mảnh đất nơi đây. Đó là phút trầm mặc để tri ân, để tưởng niệm về những cống hiến và sự hi sinh vĩ đại của họ. Những dấu vết xưa còn lưu lại như một gợi nhắc về dấu phong xưa, về quá khứ vàng son của lịch sử dân tộc, đồng thời là một điểm tựa lịch sử để thế hệ sau noi gương, trau mình.
Từ tiếc được đặt ở đầu câu thơ, thể hiện mạnh mẽ cảm xúc trong lòng nhân vật khách, đó là sự tiếc nuối và nỗi buồn hoang hoải của nhân vật khách khi chứng kiến sức mạnh ăn mòn vạn vật của thời gian đã làm phai mờ dấu tích oai hùng một thời. Theo dòng cảm xúc ấy, bao nhiêu thương cảm dồn nén ấy hóa ra lại đẩy lên trong lòng thi nhân một ước vọng được một lần nữa sống lại những khoảnh khắc oai hùng như thuở xưa. Con sông Bạch Đằng đã là nơi ghi dấu của những chiến tích lịch sử hào hùng, nơi mà quân địch thất bại ê chề nhục nhạc, giọng kể vừa hào hùng vừa xen lẫn những yếu tố lãng mạn, tạo cảm giác đầy cuốn hút cho người đọc. Khiến cho dẫu người đọc đến từ những thế sau, vẫn cảm nhận một cách chân thực, sống động quá khứ lịch sử hào hùng của cha ông, để cùng hòa điệu, hòa nhịp với dòng chảy lịch sử oai hùng của một thời kì vĩ đại.
Sự hồi tưởng về quá khứ vẻ vang mà cũng đầy đau thương của nhân vật khách phải chăng chính là đang thể hiện một vẻ đẹp đạo lí truyền thống ngàn đời của dân tộc, đó là uống nước nhớ nguồn, tìm về, nhớ về quá khứ lịch sử là một cách để tri ân, để tưởng nhớ, và để sửa mình sao cho đúng đắn với sự hy sinh mà cha ông ta đã bỏ ra.
Qua ngòi bút tài hoa của Trương Hán Siêu, thông qua dòng chảy trong mạch cảm xúc của nhân vật khách như giúp người đọc bước vào thế giới lịch sử xa xưa, để cùng cảm nhận về những thành tựu vẻ vang, cũng như sự mất mát hi sinh lớn lao không gì tả xiết của những thế hệ đã ngã xuống. Và một lần nữa, cho ta hiểu thêm về tráng trí hải hồ ngao du của nhân vật khách.
Phân tích nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 3“Khách có kẻ” trong “Bạch Đằng giang phú” là nhân vật trữ tình không ai khác mà chính là Trương Hán Siêu. Trong các bài phú cổ, nhân vật “khách” không mấy xa lạ. “Ngọc tỉnh liên phú” (bài phú Sen giếng ngọc) của Mạc Đĩnh Chi (?-1346) cũng có nhân vật “khách”: … “Khách có kẻ: nơi nhà cao tựa ghế, trưa mùa hạ nắng nồng. Ao trong ngắm làn nước biếc, Nhạc phủ vịnh khúc Phù Dung”. “Khách” ở đây là Mạc Đĩnh Chi biểu lộ tấm lòng thanh cao, chí khí, tài năng và hoài bão của kẻ sĩ ở đời.
Ta đã từng biết, Trương Hán Siêu là danh sĩ nổi tiếng đời Trần, tính tình cương trực, tâm hồn phóng khoáng. Chín câu đầu cho thấy “khách” là một tao nhân với rượu túi thơ “chơi vơi” theo cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông biển. Sống hết mình với thiên nhiên, du ngoạn thăm thú mọi cảnh đẹp xa gần. Đêm thì “chơi trăng mải miết”, ngày thì: “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt”,…
Khách đã đi nhiều và biết nhiều. Các danh lam thắng cảnh như Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,… đều ở trên đất nước Trung Hoa mênh mông, ở đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng nói lên một cá tính, một tâm hồn: yêu thiên nhiên tha thiết, lấy việc du ngoạn làm niềm lạc thú ở đời, tự hào về thói “giang hồ” của mình:
Các địa danh xa lạ không chỉ là cảnh đẹp mà còn gợi ra một không gian bao la, chỉ có những người mang hoài bão và “tráng chí bốn phương” mới có thể “giương buồm…lướt bể” đi tới. Đầm Vân Mộng là một thắng cảnh tiêu biểu cho mọi thắng cảnh. Thế mà “Khách” đã “chứa vài trăm trong dạ”, đã thăm thú nhiều lần đã từng thưởng ngoạn bao cảnh đẹp tương tự. Vẫn chưa thỏa lòng, vẫn còn “tha thiết” với bốn phương trời.
Phần đầu bài phú nói lên cốt cách kẻ sĩ: chan hoà với thiên nhiên, lấy chữ “nhàn” làm trọng, gián tiếp phủ định lợi danh tầm thường.
“Qua cửa Đại Than… đến sông Bạch Đằng”
Đoạn văn tiếp theo nói lên niềm vui thú của nhà thơ khi đến chơi sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu đã theo cái chí của người xưa “học Tử Trường” đi về phía Đông Bắc “buông chèo” cho thỏa chí “tiêu diêu”. Người xưa nói: “Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường”. Tử Trường là Tư Mã Thiên, tác giả bộ “Sử ký” bất hủ, là nhà văn, nhà sử học tài ba đời Hán. Con người ấy vẫn được xem là nhà du lịch có một không hai thời xưa. Trương Hán Siêu với cánh buồm thơ lần theo sông núi:
Bạch Đằng giang, con sông oai hùng của Tổ Quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc.Cuối thu (ba thu) nước trời một màu xanh bao la “Bát ngát sóng kình muôn dặm – Thướt tha đuôi trĩ một màu- Nước trời: một sắc- Phong cảnh ba thu”.
Câu văn tả thực mượn một hình ảnh của Vương Bột trong bài “Đằng Vương các” “Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” (Sông thu cùng với trời xa một màu). Tả con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông (1288-1356) viết: “Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc… Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối- Lầm tưởng rằng máu người chết vẫn chưa khô” (Bạch Đằng giang – Dịch nghĩa). Cảnh núi non, bờ bãi được miêu tả, đã tái hiện cảnh chiến trường rùng rợn một thời:
Bờ lau, bến lách gợi tả không khí hoang vu. hiu hắt. Núi gò, bờ bãi trập trùng như gươm giáo, xương cốt lũ giặc phương Bắc chất đống. Nét vẽ hoành tráng ấy, một thế kỷ sau Ức Trai cũng viết: “Ngạc chặt kình băm non lởm chởm – Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng” (“Cửa Biển Bạch Đằng”).
Trương Hán Siêu miêu tả dòng sông Bạch Đằng bằng những đường nét, màu sắc gợi cảm. Những ẩn dụ và liên tưởng mới về dòng sông lịch sử hùng vĩ được miêu tả qua những cặp câu song quan và tứ tự tuyệt đẹp. Mấy chục năm sau trận đại thắng trên sông Bạch Đằng(1288) nhà thơ đến thăm dòng sông cảm thương xúc động:
Một tâm trạng: “buồn, thương tiếc”, một cảm xúc “đứng lặng giờ lâu” của “khách” đều biểu lộ sự xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn sâu sắc, vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã đem xương máu bảo vệ dòng sông và sự tồn vong của dân tộc. Đó là tình nghĩa thuỷ chung “uống nước nhớ nguồn”
“Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”
Các bô lão – nhân vật thứ hai xuất hiện trong bài phú. Từ miêu tả và trữ tình, nhà thơ chuyển sang tự sự, ngôn ngữ sống động biến hoá hẳn lên, Cảm hứng lịch sử mang âm điệu anh hùng ca dâng lên dào dạt như những lớp sóng trên sông Bạch Đằng vỗ. Khách và bô lão ngắm dòng sông, nhìn con sóng nhấp nhô như sống lại những năm tháng hào hùng oanh liệt của tổ tiên.
Phân tích nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 4Trương Hán Siêu là một người có tính tình cương trực, học vấn uyên tâm, được các vua Trần tin cậy và tin dùng. Ông là một trong những danh sĩ nổi tiếng nhất đời Trần, nhưng số lượng tác phẩm để lại không nhiều. Nổi bật nhất là Bạch Đằng giang phú, với hình tượng nhân vật “khách” để lại nhiều dư âm, ấn tượng trong lòng bạn đọc. Nhân vật “khách” có thú du ngoạn bốn phương, tâm hồn tự do, phóng khoáng :
Các địa danh được liệt kê liên tiếp: Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô,… đây đều là những địa danh của Trung Quốc, thắng cảnh đẹp đẽ mà ai cũng mong muốn, mơ ước được một lần đặt chân đến. Nhân vật “khách” mượn những địa danh này để nói lên niềm đam mê, sở thích du ngoạn bốn phương của mình. Cách ông dùng từ đối lập: sớm – tối đã thể hiện rõ sở thích ngao du thiên hạ của bản thân. Qua sở thích đó còn thể hiện khát vọng tìm đến những vùng đất mới để khám phá và tìm hiểu văn hóa, lịch sử. Mặc dù nhân vật khách đã được đi nhiều nơi nhưng Mà tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết. Đằng sau đó, ta còn thấy nguyện vọng, mong muốn thật sự của nhân vật “khách” khi đi du ngoạn non sông là muốn học theo Tử Trường ngao du mọi nơi để tìm hiểu về lịch sử dân tộc.
Dưới con mắt của nhân vật “khách” bức tranh Bạch Đằng hiện lên vô cùng sống động. Cảnh sông nước Bạch Đằng bao la, bát ngát, hùng vĩ với bầu trời xanh ngắt: Bát ngát sóng kình muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu/ Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu. Nhưng bên cạnh đó còn là bức tranh ảm đạm, thê lương, hiu hắt với dấu vết của chiến tích xưa còn để lại: Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/ Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Hai bên bờ hun hút chỉ có bờ lau nối tiếp bến lách. Hai từ láy tăng nghĩa, bổ trợ cho nhau để làm rõ sự hoang vu, vắng vẻ của không gian. Nhìn sông mà khiến nhân vật khách liên tưởng đáy sông đầy vũ khí bỏ lại sau những trận chiến, nhìn gì mà liên tưởng tới nấm mồ của bao nhiêu người đã bỏ mạng ở nơi đây. Câu thơ gợi nhắc ta nhớ đến bài Bạch Đằng hải khẩu của Nguyễn Trãi :
Cả hai tác phẩm đều nhấn mạnh vào cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên vĩ đại của dân tộc ta với khung cảnh hiu quạnh, hoang vắng. Qua đó còn thể hiện niềm cảm thương với những người đã mất ở nơi đây. Đứng trước không gian đó, nhân vật “khách” choáng ngợp, hạnh phúc, thỏa mãn khi được ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đất nước. Nhân vật “khách” đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh đẹp nhất để miêu tả lại khung cảnh mình đang chìm đắm ngắm nhìn để rồi cảm thấy ngỡ ngàng nhận ra đằng sau vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng ấy, sông Bạch Đằng còn ghi dấu những chiến tích đã qua. Đoạn thơ đánh dấu sự chuyển đổi cảm xúc mạnh mẽ của nhân vật khách: Từ một người háo hức, say mê, có tâm hồn phóng khoáng, tự do chuyển sang trầm tư, buồn thương, tiếc nuối: Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/ Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Đằng sau những trạng thái cảm xúc ấy, người đọc hình dung được trọn vẹn chân dung của nhân vật “khách” – hay chính là tác giả – một con người có tâm hồn phóng khoáng, ham thích tìm hiểu lịch sử dân tộc và tình yêu quê hương đất nước.
Hình tượng nhân vật “khách” một lần nữa được tái hiện qua phần cuối tác phẩm, với những lời ngợi ca hô ứng với lời ca ngợi của các bô lão. Nhân vật khách đã cụ thể hóa chân lí của các bô lão nêu ở trên: Những người bất nghĩa tiêu vong/ Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh. Hai vị anh hùng được nhắc chính là Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông sẽ lưu danh muôn thuở, tiếng thơm lưu truyền mãi muôn đời. Không chỉ vậy ông còn ca ngợi dòng sông Bạch Đằng ghi dấu những chiến công anh hùng suốt chiều dài lịch sử đất nước. Mượn ý trong câu thơ Đỗ Phủ “Tịnh tẩy giáp binh trường bất dục” (rửa sạch vũ khí mãi mãi không dùng đến), thể hiện mong muốn có cuộc sống hòa bình độc lập. Đây cũng chính là mục đích của những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Đặc biệt ông đề cao yếu tố con người, nhất là sự nhân đức: Giặc tan muôn thuở thanh bình/ Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao. Chiến thắng ta giành được không chỉ ở lực lượng hùng mạnh mà yếu tố quyết định làm nên chiến thắng là nhân đức của con người. Câu thơ đã cho thấy giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm.
Bằng lớp ngôn từ hào sảng, giọng điệu biến đổi linh hoạt, nhân vật khách hiện lên là một người có lòng yêu quê hương đất nước tha thiết, không chỉ vậy ông còn là người có niềm đam mê tìm tòi, mở rộng hiểu biết của bản thân. Ngoài ra, những vần thơ cuối cùng của bài còn cho thấy tầm nhìn xa trộng rộng, tấm lòng nhân văn sâu sắc của nhân vật trữ tình.
Phân tích nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 5Trong sự nghiệp văn học của mình, Trương Hán Siêu sáng tác không nhiều nhưng có lẽ chỉ cần một Bạch Đằng giang phú cũng đủ để làm nên tên tuổi của ông. Đọc bài ca, hầu hết mọi người đều chung ý nghĩ: nhân vật “khách” là sự phân thân của chính tác giả và sự xuất hiện của nhân vật này có ý nghĩa khá quan trọng.
Mở đầu bài phú, hình tượng nhân vật “khách” hiện lên gây ấn tượng trong mỗi chúng ta bởi thú tiêu dao. “Khách” dạo chơi phong cảnh để thưởng ngoạn vẻ đẹp của thiên nhiên, để nghiên cứu cảnh trí đất nước, bồi bổ tri thức. Tư thế của “khách” là tư thế của con người có tâm hồn khoáng đạt, hoài bão lớn lao:
Tráng chí của “khách” thực ra cũng chính là tráng chí của Trương Hán Siêu. Nó được gợi lên từ các địa danh mà “khách” đã đi qua. Có những địa danh “khách” đi qua bằng sách vở, bằng trí tưởng tượng:
Không gian “khách” đi qua thường là không gian rộng lớn như biển lớn (lướt bể chơi trăng), sông hồ (Cửu Giang, Ngũ Hồ), là những vùng đất nổi tiếng như Tam Ngô, Bách Việt, Vân Mộng… Những chuyến phiêu lưu trong tưởng tượng như thế thể hiện tráng chí bốn phương của “khách”. Điều đáng quý là không vì mải miết chơi xa mà “khách” quên yêu những thắng cảnh của đất nước mình. Và đó là lí do “khách” dừng chân ở sông Bạch Đằng:
Để rồi, thuyền trôi đến nơi đâu trên dòng sông ấy, trong lòng “khách” cũng sống lên những cảm xúc tự nhiên, chân thành. Có khi tráng chí cất cánh cùng thiên nhiên hùng vĩ:
Cũng có khi lòng “khách” lắng vào cảnh vật ảm đạm, hiu hắt:
Có thể nói tư tưởng nhân văn của Trương Hán Siêu được thể hiện đậm nét trong những câu ca này và chính “khách” là người phát ngôn thay cho tác giả. Lời ca của “khách” khẳng định vai trò, vị trí quyết định của yếu tố con người trong công cuộc trùng hưng đất nước. Theo Trương Hán Siêu, thắng giặc không cốt ở đất hiểm mà chủ yếu là đức lớn, là sức mạnh của con người. Không có con người thì những yếu tố “thiên thời, địa lợi” cũng không giúp con người chiến thắng. Lời ca của nhân vật “khách”, thể hiện rõ sự tôn kính đối với hai vị vua triều Trần (Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông). Ngợi ca công lao nghìn năm tiết rỡ của con người là cách Trương Hán Siêu thể hiện cảm hứng mang giá trị nhân văn có tầm triết lí sâu sắc.
Như vậy, nhân vật “khách” xuất hiện trong tác phẩm cùng với những ý nghĩa quan trọng. Đây chính là hình ảnh trữ tình của nhà văn Trương Hán Siêu. “Khách”vừa là hình tượng nhân vật trong bài phú, vừa thể hiện lòng yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc cũng như tinh thần nhân văn cao cả. Từ nhân vật này, ta có thể hình dung một cách rõ ràng về nội dung tư tưởng của sáng tác và tấm lòng yêu nước của Trương Hán Siêu.
Phân tích nhân vật Khách – Mẫu 6Nhân vật khách là sự hoá thân của tác giả. Nhân vật có thú du ngoạn là để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên, sống với thiên nhiên và để nghiên cứu tìm hiểu lịch sử đất nước. Hai câu đầu cho thấy niềm say mê vui thú gió trăng với tâm hồn khoáng đạt, rộng mở. Những địa danh Trung Hoa được nhắc đến cho biết thêm, tác giả cũng đã du ngoạn xứ người qua sách vở, tưởng tượng. Tâm hồn và tri thức nhờ đó mà được bồi dưỡng khá phong phú. Thế nhưng vẫn chưa toại nguyện, tác giả còn khát khao “vẫy vùng” trong bể tri thức cho thỏa tráng chí: Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Tác giả cho rằng mình học Tử Trường (Tư Mã Thiên) đi thú tiêu dao. Điều đó có nghĩa là tác giả không chỉ say mê thiên nhiên đẹp mà còn có ý thức tìm hiểu lịch sử dân tộc, muốn sưu tầm lưu giữ những kì tích, chiến công của nhân dân bao thế hệ mà có thể sử quan triều đình chưa biết hết. Ý thức lịch sử, tinh thần dân tộc của học giả thật đáng ca ngợi. Trở về với những danh thắng của đất nước, tác giả không khỏi sung sướng và tự hào:
Đây là điểm đến mà tác giả từng chờ đợi, ao ước nên bây giờ tận mắt chiêm ngưỡng mới thật hào hứng, mới thấy hết vẻ hùng tráng và không khí tấp nập ghe thuyền buôn bán của miền đất trù phú. Nếu làm phép so sánh ngầm về danh thắng giữa nước ta với Trung Hoa sẽ thấy tác giả rất đỗi tự hào vì đất nước mình cũng có những danh thắng đâu kém gì. Nhưng tác giả không chỉ đến đây ngắm cảnh mà còn tìm hiểu lịch sử nên nhìn dòng sông qua lớp sóng thời gian, thấy đâu đó trong không gian như còn lưu giữ hình ảnh chiến địa hoang tàn cùng với những ánh hùng chiến trận nay đã thành người thiên cổ:
Âm hưởng lời ca trầm lắng, suy tư mở ra cảnh đẹp bát ngát, trong sáng êm ả nhưng ảm đạm, đìu hiu. Lời ca chứa đựng mối u hoài, mặc tưởng. Trong đó phảng phất nỗi buồn thương cho vật đổi sao dời: chiến trường oanh liệt, những dũng tướng oai hùng đã phai nhoà theo dấu vết thời gian. Nỗi thương tiếc quá khứ ấy đã biểu hiện tấm lòng yêu kính tiền nhân. Hình ảnh khách hiện lên trong đoạn đầu có tâm hồn đẹp và giàu ý thức dân tộc.
Chiến trận Bạch Đằng xưa hiện ra qua lời kể của các bô lão. (Từ câu: Bên sông các bô lão… đến câu: Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh). Bô lão là nhân vật tập thể, là người địa phương, nhưng cũng có thể là tác giả. Thái độ của bô lão với khách: vừa tôn kính (vái tạ) vừa nhiệt tình, hăm hd kể chuyện xưa. Họ cũng hãnh diện tự hào về quê hương lịch sử của mình qua câu ca dài hơi như lịch sử giữ nước:
Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt
Họ đã tái hiện cảnh chiến trường qua bút pháp chấm phá:
Cách kể chuyện khá tài hoa, cô đọng, chỉ điểm qua những nét chính mà dựng cả quang cảnh, diễn biến và không khí chiến trường. Cuộc chạm trán trên sông thật dữ dội hoành tráng, trận kịch chiến đối đầu giằng co quyết liệt, long trời lở đất, mịt mù khói lửa. Biện pháp thậm xưng đã thể hiện khí thế ngất trời, cuối cùng chiến thắng vẻ vang thuộc về quân ta, làm nổi rõ “hào khí Đông A” một thời. Lời bình của người kể:
Bọn giặc tham lam, bất nghĩa nên thất bại. Đó là nỗi nhục của quân thù không thể phai và là tấm gương soi cho lịch sử: Đến nay nước sông tuy chảy hoài Mà nhục quân thù khôn rửa nổi! Ta chiến thắng tưng bừng là nhờ địa thế hiểm trở và nhờ nhân tài. Lời bình vừa tự hào vừa khâm phục, ca ngợi lịch sử giữ nước hào hùng:
So sánh trận Bạch Đằng với những trận chiến nổi tiếng của Trung Hoa như Xích Bích, Hợp Phì, là cho thấy sự nổi tiếng và tầm oanh liệt ngang nhau, khẳng định trang trọng tài trí Ngô Quyền và vua tôi nhà Trần là bất tử. Sự so sánh còn thể hiện niềm tự hào dân tộc. Đoạn phú tự sự đậm chất sử thi, anh hùng ca và niềm tự hào lịch sử qua giọng kế hào hứng, dõng dạc, trang nghiêm,
Lời ca cuối của các bô lão:
Đó là chân lí vĩnh viễn. Lời ca sảng khoái, tự hào vang mãi cùng sông nước và hình bóng các bô lão cũng theo thuyền khuất dần sau bờ lau cao.
Lời ca của khách điệp theo: (Còn lại)
Tác giả cũng ca ngợi công đức, tài năng của hai vị vua nhà Trần: Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông nhưng khác với các bô lão, Trương Hán Siêu đề cao vai trò của con người chứ không phải nhờ địa thế hiểm yếu và bổ sung lẽ sống đạo đức của giống nòi. Đó là chân lí, lẽ phải làm nên chiến thắng.
Phân tích nhân vật Khách – Mẫu 7Văn học dân tộc đã từng ghi lại biết bao nhiêu những hình tượng đẹp. Là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn với bao nỗi trăn trở sục sôi về tinh thần tướng sĩ trong bài hịch bất hủ. Là vua Lí Công Uẩn đầy khảng khái, hi vọng về tương lai đất nước trong Chiếu dời đô. Là bậc khai quốc công thần Nguyễn Trãi hào sảng, khí thế trong Đại cáo bình Ngô. Và khoảng sau 50 năm sau chiến thắng trên sông Bạch Đằng, có một Trương Hán Siêu đầy hoài niệm về những chiến công trong lịch sử dân tộc trong Phú sông Bạch Đằng. Nhưng để bộc lộ, giãi bày xúc cảm ấy, bậc nho sĩ thời Trần đã gửi gắm qua hình tượng nhân vật khách, một sáng tạo thành công về mặt nghệ thuật đưa Phú sông Bạch Đằng trở thành một trong số những tác phẩm xuất sắc của thơ văn trung đại.
Qua những hình ảnh có tính ước lệ, cường điệu giương buồm giong gió, lướt bể chơi trăng, sớm gõ thuyền, chiều lần thăm khách hiện lên trong dáng vẻ của một con người có tâm hồn khoáng đạt, thích ngao du. Vị mặc khách ấy như thể đang vi vu với gió trăng, trời bể suốt tháng ngày. Hai từ láy chơi vơi, mải miết càng tô đậm thêm sự say mê, đắm chìm trong giấc mộng hải hồ. Phép liệt kê đã đưa khách viễn du đến những cảnh đẹp của Trung Quốc, rồi lại trở về lướt thuyền tới sông Bạch Đằng. Những vùng đất bắc phương kia, dẫu khách chưa từng đặt chân đến, có khi chỉ biết qua sách vở nhưng đã thể hiện sự hiểu biết rộng của một bậc nho sĩ và cái tráng trí bốn phương của kẻ lãng du. Đi để khám phá thiên nhiên, để mở mang tri thức. Vì thế cứ nơi có người đi, đâu mà chẳng biết, dù vài trăm trong dạ cũng nhiều nhưng tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết. Khát vọng, hoài bão được thưởng ngoạn, ngao du cứ thế mà bay bổng. Nên điển tích Tử Trường không phải để học cách ghi chép sử kí, mà là học cái thú tiêu dao. Sự học ấy là để hòa mình vào thắng cảnh, nghiên cứu lịch sử, trau dồi học thức và cũng để giãi bày tâm sự. Thế rồi cảnh ấy cũng hiện ra:
Theo cánh buồm lướt nhẹ, khách từ từ qua từng điểm rồi đến với sông Bạch Đằng. Và một cảnh tượng ngỡ ngàng hiện ra trước mắt: một khung cảnh tuyệt đẹp của mùa thu. Bút pháp miêu tả đầy lãng mạn, một bức tranh thủy mặc trên dòng sông đẹp ở từng đường nét. Có cái bát ngát sóng kình muôn dặm của một Bạch Đằng không bao giờ ngơi nghỉ, có cái thướt tha của những con thuyền như đuôi trĩ một màu và cảnh trời, sắc nước mênh mông như hòa lẫn vào nhau của một Bạch Đằng thơ mộng, hiền hòa. Phải là một tâm hồn yêu thiên nhiên, bằng con mắt của người nghệ sĩ và cả cái cảm quan đầy chất họa, Trương Hán Siêu mới vẽ được một bức tranh mùa thu đẹp như vậy. Cho nên cảm xúc cứ tự nó reo vui, thích thú trong tâm hồn của khách hải hồ. Có thể thấy, ngay ở những dòng đầu tiên của bài phú, khách đã tạo nên một tâm thế với tráng trí bốn phương rộng lớn của một nghệ sĩ lãng mạn, phóng khoáng và một bậc nho sĩ uyên bác.
Niềm xúc cảm trước thiên nhiên đẹp của bậc tao nhân, thi nhân có tráng trí hùng tâm ở trên khiến ta liên tưởng thấy bóng dáng của Nguyễn Bỉnh Khiêm “Thu ăn măng trúc đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” (Nhàn) nhưng họ Trương không bày tỏ đạo lý thanh cao như Trạng Trình; thấy cả bóng dáng Cao Bá Quát “Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng/ Phía nam núi Nam, sóng muôn đợt” (Bài ca ngắn đi trên bãi cát) nhưng môn khách Trần Quốc Tuấn không bộc lộ sự chua xót, bất đắc chí như Cao Tử. Trương Hán Siêu đến với thiên nhiên vừa để thỏa chí lãng du vừa để đáp ứng lòng mong mỏi hiểu biết nhiều hơn về phong cảnh nước mình và giãi bày niềm tự hào về những công hiển hách của cha ông ta trước đây. Bởi vậy, khách mới hiện lên chân dung của một trí thức yêu nước, nặng lòng với non sông. Nhưng ngay trong khoảnh khắc hiện tại, đối diện với Bạch Đằng, cảm xúc vui tươi trước vẻ đẹp của nó chẳng còn, bởi khung cảnh của chiến tích năm xưa giờ chỉ là:
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu
…Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!
Bút pháp tả thực dường như đã vẽ nên một khung cảnh hoàn toàn đối lập. Khách nhìn về trận địa năm xưa sao ảm đạm, thê lương! Những bờ lau, bến lách qua hai từ láy san sát, đìu hiu mà đượm buồn. Dòng sông cuồn cuộn sóng khí thế năm xưa giờ chỉ còn giáo gãy, xương khô mà bi thảm. Trong khung cảnh ấy, tâm hồn của mặc khách kia bỗng trùng xuống, có ánh mắt u buồn, có cái nín lặng, cúi đầu mà thương tiếc, xót xa, ngậm ngùi. Cảm xúc thay đổi một cách nhanh chóng đầy thương cảm, bởi sức mạnh ăn mòn vạn vật của thời gian đã làm phai mờ dấu tích oai hùng một thời. Mà sau này nhà thơ Nguyễn Trãi cũng không tránh khỏi được điều đó khi tới đây:
(Cửa biển Bạch Đằng)
Thế là bao nhiêu thương cảm dồn nén ấy hóa ra lại đẩy lên trong lòng thi nhân một ước vọng được một lần nữa sống lại những khoảnh khắc oai hùng như thuở xưa. Bởi vậy mới có nhân vật các vị bô lão – những người trong cuộc, đã chứng kiến, đã tham gia, giờ đây tái hiện, phục chế lại quá khứ ấy để gieo vào lòng mặc khách niềm tự hào, kiêu hãnh của những chiến thắng lẫy lừng trên dòng sông lịch sử năm xưa. Ca ngợi sông Bạch Đằng là con sông huyền thoại, nổi tiếng nhất quả không sai. Vì hai trận đánh của Trùng Hưng nhị thánh và Ngô chúa năm xưa đã không cho kẻ thù một chút hiển vinh, làm lay động cả trời đất, vũ trụ là ở con sông ấy. Biết bao nhiêu cảm hứng lịch sử ùa về trong lời kể. Tuy nhân vật khách không hề tham gia vào câu chuyện của các vị bô lão, nhưng chúng ta vẫn nhận ra khách tuy ẩn đi mà vẫn hiện ra bằng cảm xúc. Lối kể mang đậm chất ước lệ, cường điệu pha lẫn cảm hứng vũ trụ đã tái hiện sống động, hoành tráng, hào hùng những trận đánh năm xưa.
Từ lúc được thua chửa phân, ánh nhật nguyệt phải mờ, trời đất sắp đổi đến khi kẻ thù tan tác tro bay, hoàn toàn chết trụi, nỗi nhục nhã muôn đời không rửa nổi. Đằng sau tất cả là niềm tự hào, hứng khởi của khách. Bao cảm xúc buồn thương trước đó tan biến, nhường chỗ cho sự kiêu hãnh, mãn nguyện, thán phục về một thuở quá đỗi hào hùng, về một truyền thống yêu nước bất diệt không bao giờ mất. Khách cứ thế mà đồng tình với cách cắt nghĩa nguyên nhân những thắng lợi ấy của các vị bô lão. Cũng là một người am hiểu, thấu trọn lẽ đời và cốt lõi lịch sử, khách nhận ra thiên có thời, địa có lợi nhưng nhân phải có hòa mới làm nên được thành công. Và khách dành trọn sự ngợi ca của mình đến những con người anh hùng ấy, đặc biệt là những bậc thánh đế minh vương biết thu phục lòng dân, giữ cuộc điện an bằng đức cao sáng chói mới thấm nhuần được non sông, mới ghi tạc vào lịch sử những chiến công hiển hách đến vậy. Lời ca cuối cùng của khách như âm vang theo nhịp sóng Bạch Đằng:
Phải chăng Bạch Đằng giang cuồn cuộn sóng chảy ra biển Đông cũng là lòng người thi nhân cuồn cuộn sóng? Có cái cuồn cuộn mạnh mẽ về một quá khứ xa xưa, nhưng cũng có cái cuồn cuộn cảm khái, ưu tư về thế thời, xã tắc lúc bấy giờ. Khách bởi vậy mà đã khơi dậy những giá trị lịch sử rất đỗi thiêng liêng của dân tộc, đề cao vị trí, vai trò của con người trong lịch sử nhưng cũng ngầm chuyển tải tâm sự thời thế mà ông chẳng thể nói ra.
Qua bút pháp rất đặc trưng của thơ văn trung đại, nhân vật khách đã được khắc họa thành công trong bài phú, trở thành một hình thượng nghệ thuật đặc sắc của văn học thời kỳ này. Có thể nói, khách đã hội tụ, kết tinh hết thảy những phẩm chất con người của chính tác giả. Khách đã khẳng định cái tôi đậm chất nghệ sĩ hoài cổ mà từ đó giúp Trương Hán Siêu chuyển tải những giá trị tư tưởng có tính lịch sử thiêng liêng và truyền thống vẻ vang của dân tộc trong bài phú.
Phân tích nhân vật Khách – Mẫu 8Không biết tự bao giờ, sông Bạch Đằng đã đi vào thi ca như một nguồn cảm hứng vô tận. Trong bài “Bạch Đằng giang”, Nguyễn Sưởng có viết:
Bài thơ tuy ngắn nhưng thật cường tráng hào hùng, khắc họa một dòng sông son ghi dấu biết bao chiến công của lịch sử nước Việt. Cũng cùng nội dung đó nhưng Trương Hán Siêu lại sử dụng thể phú cổ thể rất độc đáo trong tác phẩm mang tên “Phú sông Bạch Đằng”. Bài phú được coi là một áng văn mẫu mực của văn học trung đại, thể hiện rõ nét hào khí Đông A. Hơn thế nữa, qua hình tượng nhân vật khách ta còn thấy được vẻ đẹp tráng chí của người anh hùng thời Trần cũng như âm hưởng chiến trận vang mãi đến muôn đời.
Như chúng ta đã biết, Trương Hán Siêu tự là Thăng Phủ, người làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh, nay thuộc Ninh Bình. Ông vốn là môn khách trong nhà của Trần Hưng Đạo, làm quan bốn đời vua Trần, từng giữ chức hàn lâm viện học sĩ. Về chính sự, theo lịch sử ghi chép, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông năm 1288, ông đã cùng Trần Quốc Tuấn thao lược, chỉ huy quân ta đại thắng dẹp tan kẻ thù xâm lược. Về văn học, số lượng tác phẩm của ông để lại không nhiều nhưng nổi bật nhất vẫn là “Phú sông Bạch Đằng”.
Nhân vật trữ tình hiện lên với hình ảnh của một tráng trí có tâm hồn phóng khoáng thích du ngoạn để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên. Dường như với người khách nhàn tản ấy thì không gì bằng việc chơi vơi trên sống nước, mải miết nhặt ánh trăng vàng, thả hồn với thiên nhiên, thắng tích cùng một tâm hồn đong đầy gió trăng. Thế nhưng cái thú tiêu dao đối với khách không chỉ là để thưởng thức vẻ đẹp của đất nước mà còn là nghiên cứu cảnh trí và bồi bổ tri thức. Người xưa có câu: “Nuốt tám chín cái đầm vân mộng vào bụng để đo chí làm trai”. Vậy mà du khách lại nói: “Đầm vân mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều / Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”. Có thể thấy rằng, nhân vật khách mang một khát vọng lớn lao, hoài bão cháy bỏng được đi nhiều nơi, trải nhiều điều. Tráng trí bốn phương, học vấn uyên thâm và ước vọng đó đồng thời cũng là của Trương Hán Siêu.
Điều đó được gợi lên qua hai loại địa danh: loại đi qua bằng sách vở, trí tưởng tượng như Cửu Giang, Nguyên Tương, Vũ Huyệt… và loại đi qua bằng thực tế trải nghiệm như Đông Triều Bạch Đằng, Đại Thần… Nhân vật khách học theo Tư Mã Thiên, coi những cuộc du ngoạn như để mở mang trí thức cho bản thân và lịch sử nước nhà. Khách không chỉ đến thăm danh lam thắng cảnh mà còn đặt chân đến những nơi được coi là chứng tích lịch sử để rồi được cảm nhận lịch sử trong một ko gian thực tế, khoáng đạt. Đó chính là minh chứng cho tình yêu thiên nhiên, thích du ngoạn của khách. Giống như Tản Đà từng viết: “giang hồ mê chơi quên quê hương”. Hơn nữa các không gian mà khách nói đến là những nơi rất rộng lớn, mênh mông, tự do và khoáng đạt khiến họ giương buồm giong gió lướt bể chơi trăng mải miết mà vẫn chưa thỏa. Qua đây, tác giả càng làm nổi bật cốt cách thanh cao của kẻ sĩ: yêu thiên nhiên, sống tự do chan hòa, coi thường địa vị tiền tài phù phiếm của đời người.
Trước vẻ thơ mộng của Bạch Đằng giang, khách phải dừng lại để ngắm cho kĩ và nghĩ cho thấu. Sông Bạch Đằng hiện lên với một bề rộng bát ngát và một chiều dài mênh mông. Thời điểm cuối thu, sóng biếc nhấp nhô cuồn cuộn. nước trời hòa cùng với màu xanh bao la. Những con thuyền nối đuôi nhau trên sông, theo sau những con sóng vẫy vùng. Quả là cảnh sông nước hùng vĩ lại nên thơ đến lạ! Tác giả đã dùng bút pháp tả thức, khắc họa cảnh núi non bờ bãi của Bạch Đằng giang. Phong cảnh ba thu hiu hắt đượm buồn như báo trước ngã rẽ của cảm xúc. Trong cái nên thơ trữ tình, sông Bạch Đằng cũng tiềm tàng những dấu tích của chiến công lịch sử: “bờ lau san sát bến lách đìu hiu/ sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”.
Cảm xúc về chiến trường xưa trong quá khứ khiến nhà thơ như nhìn thấy sóng chìm giáo gãy. Trên đống gò hoang là xương trắng phơi đầy của những người đã bỏ mình trong trận đánh lịch sử, giống như trong thơ của Nguyễn Trãi: “ngạc chặt kình băm non lởm chởm/ giáo chìm gươm gãy bãi giăng giăng”. Trương Hán Siêu như một người họa sĩ vẽ lên những nét bút rất mượt mà gợi cảm, ẩn dụ khiến người ta liên tưởng xa xôi và mới mẻ. Những câu văn biền ngầu như những con ngựa sóng đôi tạo nên hiệu quả nghệ thuật rất giá trị. Tự hào là thế nhưng đâu đó trong tác giả vẫn là nỗi tiếc nuối, cảm thương rất xúc động vì chiến trường oanh liệt giờ đã trơ trọi hoang vu. Thời gian đã phủ một lớp bụi mờ trên những trang sử vàng:”buồn vì cảnh thảm, đứng thẳng giờ lâu/ thương nỗi anh hùng đâu vắng tá”/ tiếc thay dấu vết luống còn lưu!”. Cũng trong mạch cảm xúc đó, nhân vật khách bâng khuâng một nỗi niềm tiếc thương, biết ơn các vị anh hùng xưa đã đem xương máu để đổi lấy hòa bình. Đứng trước dòng chảy lịch sử, khách cất lên lời ca đầy tình nghĩa thủy chung uống nước nhớ nguồn.
Lời ca của khách đã khép lại bài phú đồng thời ngợi ca hào khí Đông A, gợi lại không khí hào hùng của âm hưởng cuộc chiến. Qua nhân vật khách tác giả thể hiện niềm tự hào tự tôn dân tộc rất sâu sắc. Lời văn linh hoạt hàm súc đan xen yếu tố tự sự biểu cảm. Vì thế tác phẩm được coi là đỉnh cao của thể phú trong kho tảng văn học trung đại Việt Nam. Hơn thế nữa, bài phú còn gửi gắm nhiều quan niệm nhân sinh và triết lí tích cực rất cần thiết trong cuộc sống con người. Quả là áng văn hay sang mãi đến muôn đời!
Phân tích nhân vật Khách – Mẫu 9Trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, ông cha ta đã ghi lên trang sử nước nhà những trận thuỷ chiến thành công vang dội. Trong số những dòng sông, cửa biển in đậm dấu ấn lịch sử, Bạch Đằng là con sông nổi tiếng nhất, oai hùng nhất. Ngợi ca con sông huyền thoại, Nguyễn Trãi viết Bạch Đằng hải khẩu, Nguyễn Sưởng sáng tác Bạch Đằng giang, và nổi bật hơn cả là Trương Hán Siêu với tuyệt tác Bạch Đằng giang phú. Xuyên suốt tác phẩm nổi bật lên hình tượng nhân vật khách đầy ấn tượng.
Nhà thơ Trinh Đường viết “Bạch Đằng, chói lọi vinh quang của đất nước Việt Nam anh hùng” bởi lẽ trên dòng sông thuộc tỉnh Quảng Ninh này đã diễn ra những trận đánh toàn thắng, để lại tiếng vang muôn đời. Năm 938, Ngô Quyền đuổi sạch quân Nam Hán. Năm 1288, vua Trần đánh tan giặc Mông – Nguyên. Để tái hiện lại những chiến tích này và bày tỏ lòng tự hào về một dân tộc tài trí, anh dũng, tráng sĩ họ Trương cho ra đời Bạch Đằng giang phú. Có lẽ bài phú được môn khách của Trần Hưng Đạo viết sau chiến thắng Mông – Nguyên khoảng 50 năm. Nổi bật trong bài phú là hình tượng nhân vật khách và nhân vật bô lão.
Cùng tạo nên tính khách quan cho tác phẩm nhưng trong khi nhân vật bô lão dẫn chuyện thì nhân vật khách lại đóng vai trò khẳng định tầm quan trọng của con người trong cuộc chiến và thể hiện cảm xúc của bài phú. Sự hoá thân tài tình của tác giả vào hình tượng khách góp phần không nhỏ tạo nên thành công của tác phẩm. Mở đầu Bạch Đằng giang phú, nhân vật khách hiện lên với tình yêu thiên nhiên, học vấn sâu rộng và tráng chí bốn phương:Khách có kẻ:
Lời giới thiệu cho thấy tâm hồn thi sĩ đầy lãng mạn trong nhân vật khách. Là một người ưa thích ngao du đó đây, nhân vật khách “tham quan” nhiều địa danh nổi tiếng của nước bạn như sông Nguyên, sông Tương, đầm Vân Mộng,… qua sách vở mà vẫn thấy chưa đủ với “tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”. Điều này chứng tỏ vốn kiến thức uyên thâm, lòng ham hiểu biết, mong muốn tìm tòi ở nhân vật này. Trương Hán Siêu “học Tử Trường chừ thú tiêu dao” đi du ngoạn thiên nhiên để hòa mình vào thắng cảnh, nghiên cứu lịch sử, trau dồi học thức, giãi bày tâm sự. Đến đây, người đọc bắt gặp bóng dáng của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong
hay Cao Bá Quát trong
Không bày tỏ đạo lý thanh cao như Trạng Trình, không bộc lộ sự chua xót, bất đắc trí như Cao Tử, tác giả đến với thiên nhiên với lòng mong mỏi hiểu biết nhiều hơn về phong cảnh đất nước mình, với niềm tự hào về những chiến công hiển hách của cha ông. Không còn trong những chuyến viễn du tưởng tượng, sông Bạch Đằng, một địa danh thưc hiện lên trước mắt nhân vật trữ tình:
Đứng trước di tích lịch sử, tâm trạng nhân vật trữ tình biến đổi từ tự hào, vui tươi đến u buồn ảm đạm.
Bạch Đằng đương ở tháng thứ ba của mùa thu, thấm đẫm sắc xanh của nước trời. Được ngắm con sông hùng vĩ, đẹp nên thơ, trong lòng tác giả không khỏi tấm tắc ca ngợi, phấn khởi và tự hào vì được sống trong cảnh thái bình. Đối lập với sự hùng tráng của thắng cảnh trong hiện tại là nét bi tráng của bãi chiến trường trong quá khứ. “Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.” Những từ láy gợi hình, gợi cảm khoác lên con sông Bạch Đằng vẻ đượm buồn, sức mạnh ăn mòn vạn vật của thời gian làm phai mờ dấu tích oai hùng một thời. Không những buồn, nhân vật trữ tình còn hết sức chua xót và thương cảm bởi hậu quả kinh khủng mà chiến tranh để lại trên dòng sông lịch sử: “Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”. Con sông Bạch Đằng đã nhấn chìm bao xương máu, nuốt trôi bao sinh mạng của những nạn nhân trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Tác giả chỉ có thể ngậm ngùi:
Advertisement
Tâm trạng của Thăng Phủ bấy giờ cũng giống với tâm trạng của những thi sĩ đã từng tới đây. Nguyễn Trãi than: Việc trước quay đầu ôi đã vắng Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng.Sau khi lắng nghe những lời kể chân thực và sinh động của các bô lão về hai trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng, nhân vật khách ca rằng:
Lời bình cuối bài phú đã nêu ra chân lý bất biến về vai trò và tầm quan trọng của con người trong cuộc chiến. Khác với quan điểm của Nguyễn Sưởng trong Bạch Đằng giang:
Trương Hán Siêu khẳng định yếu tố quyết định thắng lợi của quân ta trên sông Bạch Đằng là nhờ vào mưu lược, tài trí của hai vị vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và sự anh dũng, xả thân vì nghiệp lớn của những tướng sĩ, đặc biệt là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Khi giặc đến, vua hỏi Trần Hưng Đạo nên làm thế nào, ông tâu “Năm nay thế giặc nhàn”. Cái “nhàn” ấy là sự đúc kết kinh nghiệm từ hai cuộc kháng chiến trước, là đoàn kết sức mạnh toàn dân tộc, là biết khoan thư sức dân.
Qua đó ta thấy, người đứng đầu một nước không chỉ vận dụng cái tài để bài binh bố trận trên sa trường mà còn lấy chữ “đức” để trị dân: “Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”. Đức độ của nhà vua không chỉ thể hiện chốn điện các mà còn bộc lộ trên sa trường, như Quốc tộ đã viết:Vô vi nơi điện các Xứ xứ tức đao binh. Xuyên suốt bài phú, trong việc xây dựng hình tượng nhân vật khách, Trương Hán Siêu vận dụng nhiều biện pháp nghệ thuật. Trong lời giới thiệu đầu bài, tác giả kết hợp phương pháp liệt kê với bút pháp ước lệ khi nhắc đến những địa danh mà nhân vật trữ tình “đi” qua trong tưởng tượng:
Tiếp đến, khi miêu tả con sông huyền thoại trong quá khứ và hiện tại, ông sử dụng cả biện pháp tả thực và lối nói phóng đại cùng dùng những từ láy gợi hình như “bát ngát”, “thướt tha”, “san sát”, “đìu hiu”, qua từng câu câu chữ của Thăng Phủ, Bạch Đằng hiện lên đầy kiêu hùng, bi tráng. Chưa hết, góp phần tạo nên thành công cho Bạch Đằng giang phú là cách truyền tải cảm xúc theo từng khung cảnh, giọng điệu của nhân vật khách thay đổi từ vui tươi, hưng phấn, tự hào đến trầm buồn, bi thương và tiếc nuối. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng những câu văn linh hoạt và cách ngắt nhịp bằng chữ “chừ” – từ đệm đặc trưng của thể phú giúp lời lẽ thêm uyển chuyền, nhịp nhàng.
Qua hình tượng nhân vật khách trong Bạch Đằng giang phú, Trương Hán Siêu bộc lộ đôi nét về bản thân: lòng ham học hỏi, tráng chí bốn phương, tình yêu tha thiết với thiên nhiên. Bên cạnh đó, tác giả bày tỏ tâm trạng của ông, cũng như bao người dân đất Việt trước những chiến công hiển hách, oanh liệt trên con sông Bạch Đằng. Đó là niềm tự hào về cha ông, về dân tộc, là lòng yêu nước yêu quê tha thiết, là sự thương xót và nuối tiếc cho chiến tranh thảm khốc. Không chỉ có vậy, tác giả còn khẳng định vai trò của con người trong cuộc chiến, ngợi ca tài đức của các vị thánh quân.
Nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 10Sông Bạch Đằng đã là một địa danh quen thuộc, là chứng nhân lịch sử đã viết lên nhiều mốc son chói lọi trong những trang sử vẻ vang của dân tộc, chính vì thế sông Bạch Đằng đã khơi gợi nhiều cảm hứng cho nhiều thi nhân văn sĩ, cho ra đời những tác phẩm khá nổi tiếng. Một số tác phẩm ví như Bạch Đằng giang của Trần Minh Tông, Bạch Đằng giang phú của Nguyễn Mộng Tuân hay Bạch Đằng giang của Nguyễn Xưởng,… Trong đó phải kể đến một tác phẩm thuộc thể loại phú rất nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam ấy là bài Phú sông Bạch Đằng của tác giả Trương Hán Siêu. Phần đầu của tác phẩm nổi lên hình tượng của và cảm xúc của nhân vật “khách” khởi đầu cho cả tác phẩm phú với lối đối đáp “chủ-khách”.
Trương Hán Siêu (?-1354), quê ở huyện Yên Ninh nay thuộc thành phố Ninh Bình, ông là một nhà văn hóa kiệt xuất của thời trung đại đồng thời cũng một nhà chính trị xuất sắc dưới thời Trần. Ông vốn là môn khách của Trần Hưng Đạo, trong suốt 4 đời vua Trần ông luôn được giao phó những chức vụ quan trọng, ông cũng có nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 2 và lần 3. Về sự nghiệp văn chương, hiện còn lưu giữ 17 bài thơ và hai tác hẩm văn xuôi, trong đó xuất sắc nhất được gọi là kiệt tác là bài Phú sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu được các vua Trần rất mực kính trọng, tôn gọi là thầy chứ không gọi bằng tên húy, khi mất ông đã được truy phong là Thái bảo, Thái phó thờ ở Văn miếu Quốc tử giám.
Phú sông Bạch Đằng là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Trương Hán Siêu, được đánh giá là tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lý – Trần, là đỉnh cao nghệ thuật của thể loại phú trung đại, tác phẩm còn được tôn vinh là áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học Việt Nam. Không rõ tác phẩm được sáng tác năm nào, nhưng theo 1 số nghiên cứu thì bài phú được sáng tác khoảng sau chiến thắng quân Mông – Nguyên 50 năm, khi nhà Trần bắt đầu có những dấu hiệu suy thoái.
Trong bài hình tượng nhân vật “khách” xuất hiện đầu tiên với những chuyến du ngoạn trên 2 loại địa danh, thứ nhất là du ngoạn trên các địa danh nổi tiếng trong các điển cố của Trung Quốc: Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt. Đây đều là những danh thắng đẹp và rộng lớn của Trung Quốc, đến với các địa danh này, tác gỉa đã du ngoạn qua sách vở và thông qua trí tưởng tượng của mình. Thứ hai tác giả du ngoạn thực tế trên các địa danh của đất Việt: Cửa Đại Thanh, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, đều là những địa danh khoáng đạt rộng lớn, đẹp đẽ và đặc biệt là chúng đã từng ghi dấu son trong lịch sử. Chúng hiện lên trước mắt của Trương Hán Siêu với hai đặc điểm lớn, đầu tiên là sự thơ mộng hùng vĩ “Bát ngát sóng kình muôn dặm”, dưới tầm mắt tác giả những con sóng của sông Bạch Đằng đang liên tiếp trải dài đến vô cùng vô tận, cùng với đó từ “bát ngát” lại dễ khiến người ta liên tưởng đến sự rộng lớn, hùng vĩ của khung cảnh sông nước.
“Thướt tha đuôi trĩ một màu”, gợi ra hình ảnh những con thuyền nối đuôi nhau qua lại trên sông, thật mềm mại, duyên dáng và yểu điệu, gợi ra sự thơ mộng của dòng sông Bạch Đằng vốn đã rất hùng vĩ, mênh mông. Bên cạnh sự thơ mộng, hùng vĩ, nhân vật “khách” còn cảm nhận được cái đìu hiu, lạnh lẽo thể hiện ở hình ảnh “Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu”, không một bóng người. Thêm câu “Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”, hợp lại khung cảnh hiện lên lại mang thêm màu sắc thê lương, buồn bã, đầy những hoài niệm.
Như vậy qua những cuộc du ngoạn, ta dễ dàng nhận thấy nhân vật “khách” là người có tráng chí bốn phương, cũng là người có tâm hồn thơ mộng, khoáng đạt ham thích du ngoạn, mở rộng tầm mắt, với một tâm thế tự nguyện và say sưa, chủ động, “tiêu dao” thảnh thơi đi đây đi đó, không hề có chút vướng bận ngoài thân. Nhân vật “khách” du ngoạn có nhiều mục đích, trước hết là thưởng ngoạn những cảnh sắc tuyệt vời của non sông, sau đó là nghiên cứu cảnh trí đất nước để bồi bổ kiến thức cho bản thân, điều mà “khách” học theo nhà sử gia nổi tiếng Tư Mã Thiên của Trung Quốc. Có thể thấy rằng hình tượng “khách” mà tác giả gây dựng ở đầu bài chính là một phân thân của tác giả, trong bóng dáng của khách ta thấy được bóng dáng của Trương Hán Siêu.
Nhân vật “khách” khi đứng trước những địa danh của đất Việt có nhiều tâm trạng và cảm xúc. Trước hết là nỗi vui mừng trước cảnh đẹp của sông nước vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đó còn là niềm tự hào không giấu nổi trước dòng sông ghi dấu những chiến công oanh liệt trong lịch sử dân tộc. Bên cạnh đó tác giả còn bộc lộ trực tiếp những buồn thương, nuối tiếc trước chiến trường xưa oanh liệt nay chỉ còn trơ trọi lại nỗi hoang vu và hiu quạnh khôn xiết, anh hùng nay đã mất, chỉ còn lại những dấu vết cũng sắp sửa phai mờ.
Khách “đứng lặng giờ lâu”, không giấu nổi sự bâng khuâng, hụt hẫng, trống trải, tâm trạng khách có sự thay đổi từ hướng ngoại, phơi phới, sôi nổi vì cảnh sắc nay đã chuyển sang hướng nội, buồn thương nuối tiếc trước dòng chảy lạnh lùng của thời gian, lịch sử, đã phủ mờ lên cảnh cũ người xưa. Ngày nay, chiến trường xưa vốn oanh liệt, nay chỉ còn bờ lau, bến lách chỉ còn sông chìm, giáo gãy chỉ còn “gò đầy xương khô”, những anh hùng một thuở lưu danh trong sử sách những ngày hôm nay “đâu vắng tá” đều đã trở thành người thiên cổ. Đó cũng là những nỗi lo lắng tiềm ẩn, của một chí sĩ yêu nước trước thực cảnh của đất nước vào những năm cuối thời Trần.
Nhân vật “khách” cũng là hiện thân của Trương Hán Siêu, trước tình hình đất nước đang trên đà suy vong, khi trở về thăm lại sông Bạch Đằng, bỗng chốc nảy sinh nhiều cảm xúc, mà phần nhiều đều xuất phát từ lòng yêu nước thương dân, nỗi lo cho vận mệnh của dân tộc của một nguyên lão 4 triều. Bên ngoài là cái vẻ thảnh thơi ngắm nhìn cảnh sắc hùng vĩ thơ mộng của Đại Việt ta, nhưng ấp ủ trong ấy là bao nỗi lòng hoài niệm, tiếc thương những ngày đất nước thật thái bình thịnh trị, quân đội hùng mạnh, viết nên những trang sử hào hùng. Nhưng giờ cảnh còn người mất, khiến tác giả không khỏi bâng khuâng khỏi lặng người, như vậy mạch cảm xúc tâm trạng của nhân vật “khách” chính là tiền đề khởi nguồn cho những phần tiếp theo của bài phú.
Nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 11Phú sông Bạch Đằng đã thể hiện lòng yêu nước và niềm từ dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lý nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Nổi bật trong tác phẩm là hình tượng nhân vật khách.
Nhân vật “khách” chính là lời tự xưng của tác giả, tạo ra được lối đối đáp của “chủ – khách” thường dùng trong thể phú. Trong bài nhân vật khách xuất hiện với những chuyến du ngoạn. Đầu tiên là chuyến du ngoạn trên các địa danh nổi tiếng trong các điển cố của Trung Quốc: Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt. Đây đều là những danh thắng đẹp và rộng lớn của Trung Quốc. Thứ hai là các địa danh của đất Việt: Cửa Đại Thanh, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng. Đây đều là những địa danh khoáng đạt rộng lớn, đẹp đẽ và đặc biệt là chúng đã từng ghi dấu son trong lịch sử. Thiên nhiên hiện lên trước mắt nhân vật khách khoáng đạt, rộng lớn. Qua đó, nhân vật này hiện lên là người có tráng chí bốn phương. Cũng là người có tâm hồn thơ mộng, khoáng đạt ham thích du ngoạn. Như vậy, hình tượng “khách” mà tác giả gây dựng ở đầu bài chính là một phân thân của tác giả, trong bóng dáng của khách ta thấy được bóng dáng của nhà thơ.
Ở đoạn tiếp theo, khi đứng trước thiên cảnh sắc thiên nhiên sông Bạch Đằng, nhân vật khách bộc lộ niềm vui mừng trước vẻ đẹp hùng vĩ vừa thơ mộng. Đó cũng là niềm tự hào không giấu nổi trước dòng sông ghi dấu những chiến công oanh liệt trong lịch sử dân tộc. Không chỉ vậy, nhân vật khách còn bộc lộ trực tiếp những buồn thương, nuối tiếc trước chiến trường xưa oanh liệt nay chỉ còn trơ trọi lại nỗi hoang vu và hiu quạnh khôn xiết, anh hùng nay đã mất, chỉ còn lại những dấu vết cũng sắp sửa phai mờ. Khách đứng trước sông Bạch Đằng hàng giờ, không giấu nổi sự hụt hẫng, trống trạng. Tâm trạng lúc này của khách có sự thay đổi từ hướng ngoại và sôi nổi sang hướng nội và buồn thương nuối tiếc trước dòng chảy lạnh lùng của thời gian, lịch sử:
Chiến trường oanh liệt khi xưa, ngày nay chỉ còn lại bờ lau, bến lách, sông chìm, giáo gã. Những vị anh hùng lưu danh sử sách cũng chỉ còn được lưu danh trong thiên cổ. Qua đó, nhà thơ gửi gắm nỗi niềm lo lắng của một người chí sĩ yêu nước trước hoàn cảnh đất nước cuối thời Trần lúc bấy giờ.
Cuối cùng, hình tượng “khách” còn được xuất hiện ở cuối tác phẩm qua những lời ngợi ca hô ứng với lời ca ngợi của các bô lão. Nhân vật khách đã cụ thể hóa chân lý của các bô lão nêu ở trên
Hai vị anh hùng được nhắc chính là Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông sẽ lưu danh muôn thuở, tiếng thơm lưu truyền mãi muôn đời. Nhân vật khách đã ca ngợi dòng sông Bạch Đằng ghi dấu những chiến công anh hùng suốt chiều dài lịch sử đất nước.
Hình tượng nhân vật khách được xây dựng trong tác phẩm Phú sông Bạch Đằng hay cũng chính là đại diện cho Trương Hán Siêu. Những nỗi niềm mà nhân vật khách gửi gắm hay cũng chính là tiếng lòng của chính nhà thơ. Phú sông Bạch Đằng quả là một tác phẩm chứa đựng những giá trị cao đẹp.
Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Nhân Vật A Phủ Trong Tác Phẩm Vợ Chồng A Phủ Dàn Ý &Amp; 20 Bài Văn Phân Tích Nhân Vật A Phủ
Phân tích nhân vật A Phủ hay nhất
Dàn ý phân tích nhân vật A Phủ (2 Mẫu)
Sơ đồ tóm tắt nhân vật A Phủ
Phân tích nhân vật A Phủ
Phân tích nhân vật A Phủ ngắn gọn nhất (7 Mẫu)
Phân tích nhân vật A Phủ đầy đủ nhất (9 Mẫu)
Dàn ý phân tích nhân vật A PhủI. Mở bài:
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
Giới thiệu nhân vật
II. Thân bài:
* Xuất thân của A Phủ
Khốn khó, mồ côi cha mẹ, sống tự do, khỏe mạnh, siêng năng, giàu bản lĩnh, nhưng không kiêu ngạo, là “con trâu tốt” của bản mường nhưng vì nghèo nên không lấy được vợ. Trích câu dân làng nói về A Phủ.
Là con người không bao giờ lùi bước trước cường quyền, bạo chúa. A Phủ biết A Sử là con thống lí nhưng vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây rối.
* Trải qua những ngày tháng đọa đày cùng cực trong nhà Thống Lý
Sau việc đánh con quan làng, A Phủ đã nhận lấy những trận đòn kinh người của nhà Thống Lý, A Phủ dù bị đánh đập nhưng không hề kêu van xin tha đến nửa lời. Anh rất cứng đầu, mạnh bạo và không chịu khuất phục.
Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với công việc: “đốt rừng, cày nương, cuốc mương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây lên tội thì cũng phải chịu phạt
Khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc để người ta trói mình. Đau khổ cùng cực đến nỗi khi Mị nhìn sang thì thấy “một dòng nước lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đem lại”, “thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh”.
* Nổi bật ở A Phủ là một sức phản kháng mãnh liệt:
Điều này thống nhất với bản tính gan góc từ nhỏ: cả nhà chết hết vì bệnh dịch, làng chết và đói nên “người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc ở Hồng Ngài”
Trong đêm tình mùa xuân, trước việc gây chuyện của đám trai làng do A Sử cầm đầu, A Phủ đã gan góc ” vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đập đầu xuống đất, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động này thật dũng cảm, dẫu chỉ là bộc phát. A Phủ thể hiện mình không chịu nhục trước thế lực cường quyền.
Đặc biệt khi được Mị cởi trói, mặc dù rất đau đớn đến “khụy xuống, không bước nổi”, trong người không còn sức lực do phải chịu cực hình, trói đứng và nhịn đói, nhưng anh đã “quật sức vùng lên chạy”; cùng với Mị tự giải thoát khỏi nhà thống lý. Khát vọng, sức sống từ người phụ nữ cùng cảnh ngộ đã thổi bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do nơi người con trai mang bản chất tốt đẹp này.
* Đánh giá
Nếu Mị là kiểu nhân vật tâm lý thì A Phủ lại là nhân vật hành động táo bạo, quyết liệt.
Khi miêu tả A Phủ, nhà văn phối hợp vừa tả vừa kể, nhấn mạnh các chi tiết cụ thể, ấn tượng để khắc họa những đặc điểm, tính cách nhân vật.
Cùng với Mị, A Phủ đã góp phần hoàn thiện chân dung con người miền núi Tây Bắc: Số phận đau thương nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng
Người đọc cũng mong có một kết thúc tốt đẹp đến với A Phủ và Mị. Bởi họ là những con người không chịu khuất phục trước cường quyền gian ác. Nếu chị Dậu trong “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố chạy ra khỏi nhà lý thống trong đêm tối, cái đêm đen cũng đen như cuộc đời của chị, người ta mong chị sẽ gặp được ánh sáng soi rọi của cách mạng, thì ở đây, người đọc cũng mong A Phủ và Mị chạy thoát khỏi nhà lý thống, gặp được ánh sáng của Cách mạng ở cuối đường.
III. Kết bài:
Khi miêu tả nhân vật A Phủ, nhà văn miêu tả qua những hành động khi bị đánh đập, để thấy được sức sống kiên cường của anh. Số phận của nhân vật A Phủ cũng giống như số phận của bao người dân miền núi khác, như Mị. Họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng. Nhưng họ đã đấu tranh để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.
…………………
Sơ đồ tóm tắt nhân vật A Phủ Phân tích nhân vật A Phủ đạt điểm 9+Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm tiêu biểu khi nhà văn Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm này rất đặc sắc sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo khán giả đón nhận. Cùng với đó là những nhân vật ở trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đã trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ và mang những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phận.
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài mở đầu khi giới thiệu nhân nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về và có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa và cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi và thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên và cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Và từ một hình ảnh đó đã để rồi khi liên kết xâu chuỗi với nhau, nhà văn làm nổi bật được hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mà chính hình ảnh này cũng khiến cho Nhân vật A phủ và Mị có duyên gặp nhau.
A Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh mà thật oái oăm và A Phủ đã xô xát đánh nhau với A Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này thì A Phủ mới bị bắt về bị đánh đập tàn nhẫn. Sau tình huống này nhà văn mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh của A Phủ và chàng là người nghèo khổ, mất hết cả cha lẫn mẹ và sống kiếp mồ côi không ai chăm sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đói đã bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng. Nhưng không cam chịu với số Phận và A Phủ 10 tuổi đã một mình kiếm sống, học hỏi nhiều nghề để phụ trợ cho bản thân. Từ khi còn bé và với số phận chua xót, A Phủ đã biết vượt lên và chống chọi với số phận chứ không để số phận khiến anh có một số phận trớ trêu được . Sức sống tiềm tàng của A Phủ một người đã sớm được bộc lộ và không chỉ khi nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật và hiền lành và chăm chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của nhà văn Tô Hoài là một người có sức khỏe hơn người.
A Phủ còn là một con người có đời sống phóng khoáng và yêu đời và chính nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình mà dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ đã vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí khí.
Hơn vậy là chính vì lối sống phóng khoáng, sức khỏe hơn người nên anh có nhiều người để ý. Nhiều cô gái lấy làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới khắc nghiệt nên ở xã hội phong kiến miền núi đương thời và A Phủ bị người ta khinh thường với một lí do nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới vợ.
Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ đã trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với bản năng của mình thì A Phủ không than, không van xin lấy một lời, A Phủ không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn và mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. “Cứ như thế, suốt chiều nhiều ngày, càng hút, càng tỉnh và càng đánh, càng chửi và càng hút”. Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại về cảnh xử kiện độc đáo ấy và có đến vài lần nhà văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ và ông còn sử dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú pháp để nhấn mạnh những tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với những người dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống trị. Bị phạt vạ và A Phủ thành người ở không công quần quật với hàng nghìni công việc. A Phủ có thể đốt rừng và cày nương, vỡ nương, săn bò tót và bẫy hổ, chăn bò và chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng và có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ đã phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa và áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ đã chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình và có nhà, hơn nữa, anh đã gây nên tội thì cũng phải chịu phạt. Nhưng khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ vồ mất bò và A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng thì anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình lại . Ở trong nhà thống lí Pá Tra và sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường và anh phải thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt trên hõm má đã xám đen lại của anh đã là giọt nước mắt của sự đắng cay và sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng.
Tuy nhiên vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ và nó được nuôi dưỡng từ khi còn bé cơ cực. Anh phải chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh đã gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tội và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai và nhưng đêm đến anh đã cúi xuống nhay đứt hai vòng dây mây và anh tìm cách để tự giải thoát mình. Cùng lúc đó khi được Mị cứu và lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát và đau đớn. Nhưng vì cái chết sẽ có thể đến ngay , anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà thống lí và thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A Phủ đã để cho Mị đi theo và anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả Mị.
Sau khi vượt khỏi nhà thống lí thì A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở đây, anh cũng đã như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do sự áp bức của những bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách mạng, anh nhanh chóng trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du kích dũng cảm và là người tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi A Phủ giác ngộ thì được chân lí cách mạng là một hình ảnh đẹp và không chỉ A Phủ mà là hiện thân cho những con người ở Tây Bắc.
Bằng ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, nhà văn Tô Hoài đã làm nổi bật được hình tượng và khí phách của A Phủ – nhân vật điển hình trong truyện. Cùng là với A Phủ là Mị và dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc và họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.
Phân tích nhân vật A PhủTruyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm xuất sắc nhất cũng là tác phẩm đề đời của nhà văn Tô Hoài trong tập “Truyện Tây Bắc”. Và một trong những thành công của truyện là nghệ thuật miêu tả nhân vật A Phủ. Khi miêu tả nhân vật A Phủ nhà văn đã cho thấy tài năng của mình khi bắt đầu kể chuyện từ thời điểm có ý nghĩa trong cuộc đời của A Phủ, để từ đó làm nổi bật lên tính cách của nhân vật. Và trong tác phẩm này, tác giả đã chú ý chọn lựa hai chi tiết tiêu biểu làm nên cá tính của A Phủ: Lần thứ nhất, lúc bị đánh trong cuộc xử kiện: “A Phủ chỉ quỳ, im như tượng đá. Lần thứ hai là lúc được Mị cởi trói: “A Phủ quật sức vùng lên chạy”. Đó là sức mạnh phản kháng ở người nông nô nghèo miền núi.
A Phủ xuất hiện trong tác phẩm đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc, đó là cảnh A Phủ đánh A Sử, con trai thống lí Pá Trá, khi hắn dám phá đám chơi của A Phủ và đám bạn. Ta tưởng đây là nhân vật có quyền thế nhưng không A Phủ cũng giống như Mị, anh là người nông nô nghèo bị gia đình Pá Tra áp bức, bóc lột và trở thành tôi đòi, con ở, nô lệ cho gia đình thống lí.
Tuổi thơ của A Phủ đầy bất hạnh, mới mười tuổi đã phải mồ côi cả cha lẫn mẹ trong dịch bệnh đậu mùa. A Phủ trở thành đứa bé tứ cố vô thân không cha mẹ, không anh em, không có ruộng, không có bạc, đã vậy lại bị người làng xấu bụng bán xuống núi thấp để đối lấy thóc, A Phủ không chịu liền trốn lên núi cao lưu lạc đến Hồng Ngài làm thuê làm mướn. Đến lớn, A Phủ trở thành một chàng trai khỏe mạnh, chăm chỉ cày ruộng cuốc đất. Nhưng dù lớn lên trong cảnh nghiệt ngã, A Phủ vẫn hồn nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống tự nhiên, yêu chính nghĩa. Anh vẫn đem sáo, đem khèn đi tìm người yêu.
Tuy nhiên, đâu chỉ có vậy, số phận nghiệt ngã đã biến A Phủ trở thành nông nô cho nhà thống lí chỉ vì đánh A Sử, người đã phá đám chơi của A Phủ và đám bạn. Trước khi trở thành nông nô cho nhà Pá Tra, A Phủ phải tham gia xử kiện mà không phải lỗi của mình. Anh bị đánh đập dã man, tàn bạo “mặt A Phủ xưng lên môi và đuôi mắt dập chảy máu”. Đến khi trở thành nông nô cho nhà thống lí Pá Tra, anh bị bóc lột sức lao động một cách tàn nhẫn ở ngoài gò ngoài rừng. Đặc biệt phải chịu hành hạ về nỗi đau tinh thần khi bị con ma trình mặt, phải chịu đựng những lời chửi rủa cay độc của mọi người và Pá Tra.
Nhưng một lần nữa, Tô Hoài lại cho thấy niềm tin của ông vào giá trị của con người. Nó không chỉ được thể hiện qua nhân vật Mị mà nó còn được thể hiện qua sức mạnh phản kháng ở nhân vật A Phủ. Điều này được nhà văn Tô Hoài chọn lựa chi tiết trong vụ xử kiện, khi bị bọn trai làng xô đến đánh, “A Phủ chỉ quỳ, im như tượng đá”. Nhiều người đọc đến đây cho rằng A Phủ hèn nhát, nhưng không, nếu hèn nhát thì sao A Phủ dám đánh A Sử có nạm vòng bạc ở cổ rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ mà chỉ riêng con cái nhà quan trong làng mới được đeo, ngược lại phải chăng hình ảnh “im như tượng đá” chính là một hành động của sự phản kháng, đó là biểu hiện bất tuân, nén nỗi căm giận vào trong lòng, không nói, không thanh minh đó chính là sức mạnh phản kháng tiềm ẩn bên trong con người nhân vật này.
Chính cá tính gan góc, mạnh mẽ đó của A Phủ đã tạo nên những con sóng ngầm ngày một mạnh mẽ bên trong anh. Khi hoàn cảnh càng trở nên nghiệt ngã, đau khổ thì sức phản kháng lại càng mạnh mẽ. Nó được thổi bùng trong lần miêu tả thứ hai về A Phủ của nhà văn Tô Hoài. Sự kiện bắt đầu khi A Phủ vô tình để hồ vồ mất bò do mải bẫy nhím, bị cha con thống lí Pá Tra phát hiện và bắt đứng trói vào cột không cho ăn, không cho uống. Nhưng nhờ sự đồng cảm, tình thương người của Mị, cô đã cởi trói cứu giúp A Phủ. Và trong hoàn cảnh giữa ranh giới của sự sống và cái chết, một lần nữa tinh thần phản kháng ấy lại trỗi dậy và được tài năng Tô Hoài thể hiện “A Phủ bỗng ngã khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay. A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy”. Hành động của A Phủ có lẽ lúc đầu chỉ là ý nghĩ chạy trốn khỏi cái chết nhưng sau đó nó đã trở thành hành động đến với con đường giải phóng. Từ việc tìm đường đến nhận đường chính là ý thức làm người, là tinh thần phản kháng, là khát khao sống, khát khao được tự do và đó cũng chính là cơ hội tốt để sau này A Phủ làm du kích cống hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp Cách mạng.
Có thể nói, nghệ thuật miêu tả nhân vật A Phủ đầy sắc sảo của Tô Hoài đã tạo nên một hình tượng nhân vật đầy nam tính. Khát vọng tự do công bằng được biểu hiện ở A Phủ âm thầm, mạnh mẽ, hồn nhiên và cũng thật đơn giản. Tính cách của A Phủ mang phẩm chất tiêu biểu của người đàn ông chân chính dân tộc Mông.
Hai lần miêu tả A Phủ ở hai thời điểm khác nhau có ý kiến trái chiều cho rằng lần miêu tả thứ nhất A Phủ đã cam chịu, cam phận đến lần thứ hai thì đó mới là sức mạnh phản kháng thật sự. Điều này không sai, bởi lẽ A Phủ để mặc cho họ đánh vì sức của A Phủ không thể địch lại với sức của hàng trăm người ở đó, nó là sức cường quyền áp bức lên một người nông nô nghèo thân cô thế cô và hơn nữa ở lâu trong cái khổ thì cũng quen khổ rồi, ở cái đất Hồng Ngài dưới ách thống trị của nhà thống lí Pá Tra thì đâu cũng vậy thôi. Đó cũng chính là sự cam chịu của người nông nô vùng núi cao khi chưa có ánh sáng của Đảng, chưa có sự giác ngộ, chưa biết đoàn kết tạo nên sức mạnh chống lại cường. Và chính lần miêu tả thứ hai khi A Phủ quật sức chạy, nó không chỉ thể hiện tinh thần phản kháng mạnh mẽ ở anh mà hành động quật sức chạy đó phải chăng là cơ hội để A Phủ chạy gần đến bên Cách mạng, được giác ngộ để làm du kích sau này. Từ đây, ta có thể thấy được tài năng am hiểu nội tâm con người của Tô Hoài, ông thật sự là một cây bút già dặn khi nhìn thấy hai mặt đối lập ở một con người A Phủ vừa cam chịu số phận nhưng cũng vừa mạnh mẽ, can trường, bất khuất. Đó cũng chính là niềm tin bất diệt của nhà văn vào tâm hồn, sức sống, sự phản kháng quyết liệt ở con người trên đường đi tìm hạnh phúc, tìm lại chính mình.
Như vậy qua nghệ thuật miêu tả cuộc đời, tính cách của nhân vật A Phủ, Tô Hoài đã tố giác giai cấp thống trị miền núi đại diện là cha con nhà thống lí Pá Tra đã đẩy con người hiền lành chất phác như A Phủ vào cảnh bị cướp đoạt sức lao động, cướp đoạt quyền làm người. Viết về điều đó, nhà văn đã cảm thông với những khổ đau, bất hạnh của họ đồng tình với sự phản kháng quyết liệt để mở ra một lối thoát cho những người nghèo lao động miền núi. Qua đây, một lần nữa thể hiện tài năng nắm bắt cá tính con người và tấm lòng nhân đạo vô bờ bến của nhà văn Tô Hoài.
Phân tích nhân vật A Phủ ngắn gọn nhất Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 1“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của một chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Tô Hoài. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét nhất cuộc sống và những số phận bất hạnh của những người nông dân nghèo dưới ách áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến. Nhưng nổi bật hơn nữa chính là khát vọng, là nghị lực sống mãnh liệt của họ. A Phủ là nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm về sự vượt lên chính mình. Tô Hoài đã rất thành công khi khắc họa nhân vật này.
A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại khiến người đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. A Phủ với những tính cách, phẩm chất vừa khiến người ta xót thương vừa khiến người ta ngưỡng mộ hơn.
Tô Hoài đã để cho A Phủ xuất hiện trong lần cọ xát, đánh nhau với A Sử, sau đó bị bắt và bị đánh đập dã man. Tiếp theo đó tác giả ngược dòng kể về hoàn cảnh của A Phủ. A Phủ phải chịu đựng sự cơ cực, vất vả những năm tháng ấu thơ. Trận dịch đậu mùa khi A Phủ mười tuổi đã cướp đi gia đình, bố mẹ, anh chị em. Để lại một mình A Phủ bơ vơ, cù bất cù bơ. Tình cảnh ấy thật khiến người đọc xúc động. Đáng buồn hơn nữa có người đã đem A Phủ đi bán đổi lấy thóc. Nhưng tính cách gan góc, ngang bướng của A Phủ thì nó không thể trói buộc được anh. A Phủ đã trốn lên Hồng Ngài, làm thuê làm mướn từ mùa này sang mùa khác. Sự cơ cực ấy đã được rèn luyện suốt bao nhiêu năm, A Phủ thành một chàng thanh niên gan dạ, dũng cảm đương đầu với số phận. Đây chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau của cuộc đời A Phủ.
Từ khi trưởng thành, A Phủ đã chứng tỏ mình là một người gan góc, liều lĩnh, không chịu khuất phục, luôn chiến đấu với bản thân để vươn đến những điều tốt đẹp nhất “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Chính nghị lực và sức khỏe của A Phủ đã khiến cho nhiều người yêu mến anh. Dù nghèo đói, cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc quan, tự tin vào tương lai phía trước. Vào những ngày Tết, “ A phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong vùng”. Chính điều này đã tạo nên ấn tượng cho nhiều cô gái.
Nhưng A Phủ lại là người không cha không mẹ, không tiền không bạc, không ruộng nương thì lấy vợ là chuyện quá xa xôi. Một người đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc nhưng cuối cùng vẫn cô độc như thế.
Có lẽ hình ảnh A Phủ đánh A Sử khiến người đọc vừa dồn dập, vừa thương cảm cho con người này “A Phủ chạy vụt ra, vung tay ném con quay to vào mặt A Sử. A Sử vừa kịp vung tay lên, A Phủ đã xông tới, nắm cái vòng cổ dập đầu xuống áo đánh tới tấp”. Hành động này vừa chứng tỏ A Phủ rất khỏe mạnh, vừa không hề sợ bọn địa chủ phong kiến tàn bạo. Nhưng đây cũng chính là nguyên cớ tạo nên mối thù sâu sắc giữa người nông dân nghèo và tầng lớp địa chủ, quý tộc. A Phủ đã bị thống lý Pá Tra đánh đập dã man, tàn bạo từ trưa đến đêm.Có thể nói nhà thống lý chính là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều hủ tục, sự phân biệt giai cấp nặng nề, coi thường những người nông dân thấp cổ bé họng. Chúng coi A Phủ như một con vật, không hơn không kém. Bộ dạng A Phủ lúc đó thật thảm hại và đáng thương “A Phủ chỉ im lặng như tượng phật”. Sự im lặng đó chính là sự căm phẫn, uất ức đến tột độ nhưng cũng không thể làm điều gì hết.
Chỉ vì hành động đó mà A Phủ đã phải làm nô lệ suốt đời cho nhà thống lý. Xã hội bây giờ dường như chỉ tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống dưới đáy của xã hội mới hả hê, mới yên long.
Đến đây chúng ta lại liên tưởng đến nhân vật Mị, có lẽ A Phủ cũng như Mị, sống lay lắt héo hon trong ngôi nhà đầy oán hận này.
Cuộc đời của A Phủ cũng giống như Mị, từ đây sống hay chết cũng đều phó mặc cho nhà thống lý. A Phủ không có quyền lựa chọn cho mình con đường đi, không được chọn hạnh phúc cho mình. Suốt một đời này phải làm trâu làm ngựa cho nhà thống lý. Một sự thật nghiệt ngã đến đau long. Tô Hoài đã khiến người đọc không khỏi xúc động. Bằng ngôn ngữ đặc tả, tác giả đã tạo nên sự riêng biệt của A Phủ.
Bi kịch này nối tiếp bi kịch khác, chỉ vì để hổ vồ mất bò mà thống lý đã bắt trói A Phủ và đánh đập dã man. Sự đau khổ và tuyệt vọng in hằn trong đôi mắt ấy, đôi mắt ám ảnh người đọc đến tận tâm can. Cái chết hiển hiển trong tâm trí A Phủ và A Phủ ý thức rất rõ được điều này.
Có lẽ chính vì ý thức này đã làm nên sự vượt phá ở cuối tác phẩm khi Mị quyết định cởi trói và bỏ trốn cùng A Phủ. Có lẽ đây là đoạn văn khiến cho người đọc vừa hồi hộp, vừa xót xa vừa khâm phục.Con người ta khi bị bóc lột quá sức sẽ vùng lên đấu tranh để đi tìm con đường riêng. A Phủ thực sự đã làm được. Thoát khỏi nhà thống lý, A Phủ sẽ thành một người công dân có ích cho đất nước, đi theo tiếng gọi của cách mạng.
Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng nhân vật A Phủ, hình tượng điển hình của người nông dân trong xã hội phong kiến bị áp bức nhưng lại có khát khao sống mãnh liệt.
Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 2Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm tiêu biểu khi tác giả Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm đặc sắc này sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo khán giả đón nhận. Cùng với đó, những nhân vật ở trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đã trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ, mang những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phận.
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mở đầu khi giới thiệu nhân nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Và từ một hình ảnh đó, để rồi khi liên kết xâu chuỗi với nhau, tác giả làm nổi bật được hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mà chính hình ảnh này cũng khiến cho Nhân vật A phủ và Mị có duyên gặp nhau.
A Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh mà thật oái oăm, A Phủ đã xô xát đánh nhau với A Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này, A Phủ bị bắt về bị đánh đập tàn nhẫn. Sau tình huống này tác giả mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh của A Phủ, chàng là người nghèo khổ, mất hết cả cha lẫn mẹ, sống kiếp mồ côi không ai chăm sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đói đã bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng. Nhưng không cam chịu với số Phận, A Phủ 10 tuổi đã một mình kiếm sống, học hỏi nhiều nghề để phụ trợ cho bản thân. Từ khi còn bé, với số phận chua xót, A Phủ đã biết vượt lên và chống chọi với số phận chứ không để số phận khiến anh có một số phận trớ trêu. Sức sống tiềm tàng của một người đã sớm được bộc lộ, không chỉ khi nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật, hiền lành và chăm chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của Tô Hoài là một người có sức khỏe hơn người.
A Phủ còn là một con người có đời sống phóng khoáng, yêu đời và chính nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí khí.
Hơn vậy, chính vì lối sống phóng khoáng, sức khỏe hơn người nên anh có nhiều người để ý. Nhiều cô gái lấy làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới khắc nghiệt ở xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ bị người ta khinh thường và một lí do nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới vợ.
Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với bản năng của mình, A Phủ không than, không van xin lấy một lời, A Phủ không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn, mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại cảnh xử kiện độc đáo ấy, có đến vài lần nhà văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ, ông còn sử dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú pháp để nhấn mạnh tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với người dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống trị. Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với hàng núi công việc. A Phủ có thể đốt rừng, cày nương, vỡ nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây nên tội thì cũng phải chịu phạt. Nhưng khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình. Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường, anh phải thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt trên hõm má đã xám đen lại của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng.
Tuy vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ,nó được nuôi dưỡng từ khi còn bé cơ cực. Anh chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tội và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai nhưng đêm đến anh đã cúi xuống nhay đứt hai vòng dây mây, anh tìm cách để tự giải thoát mình. Cùng lúc đó khi được Mị cứu, lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát, đau đớn. Nhưng vì cái chết sẽ có thể đến ngay, anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà thống lí, thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A Phủ để cho Mị đi theo, anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả Mị.
Sau khi vượt khỏi nhà thống lí, A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở đây, anh cũng như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do sự áp bức của bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách mạng, anh nhanh chóng trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du kích dũng cảm, là người tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi A Phủ giác ngộ được chân lí cách mạng là một hình ảnh đẹp, không chỉ A Phủ mà là hiện thân cho những con người ở Tây Bắc.
Bằng ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, Tô Hoài đã làm nổi bật được hình tượng và khí phách của A Phủ – nhân vật điển hình trong truyện. Cùng với A Phủ là Mị, dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.
Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 3Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình lay động lòng người. Ông đã viết thành công tác phẩm Truyện Tây Bắc, trong đó có truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để giành lấy tình yêu, hạnh phúc. Tiêu biểu cho những con người ấy là A Phủ, một trong những nhân vật thành công nhất của Tô Hoài trong tác phẩm này
Năm 1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi thực tế này đã đem đến cho nhà văn cái nhìn sâu sắc và tình cảm thắm thiết với người và cảnh Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập “Truyện Tây Bắc”.
Tác giả cho A Phủ xuất hiện đột ngột trong trận đánh nhau với A Sử con trai thống lí, rồi bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ phải ở trừ nợ. Sau đó mới kể lai lịch của A Phủ. Cách giới thiệu này vừa gây chú ý cho người đọc vừa nhấn mạnh tính cách mạnh mẽ của A Phủ.
Từ bé, A Phủ đã mồ côi cha mẹ, không còn người thân thích trên đời, bị người làng bắt đem bán cho người Thái ở vùng thấp. Mới mười tuổi, A Phủ đã gan bướng, không thích ở cánh đồng thấp, trốn lên núi, lưu lạc tới Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh “chạy nhanh như ngựa”, “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại giỏi cày và săn bò tót rất bạo”. Con gái trong làng nhiều người mê, họ kháo nhau “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Người ta đùa vậy thôi chứ A Phủ nghèo lắm. Không có cha mẹ, không có ruộng nương, không có bạc, suốt đời làm thuê, làm sao A Phủ lấy nổi vợ. Nếu ở xã hội khác, A Phủ xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Thế mà A Phủ bị chà đạp, bị đối xử bất công. Nếu không được Mị giải thoát, chắc A Phủ đã chết trong tay cha con thống lí Pá Tra.
Cá tính gan góc của A Phủ đã bộc lộ từ năm 10 tuổi. Cá tính ấy lại được chính cuộc sống hoang dã núi rừng cùng hoàn cảnh ở đợ làm thuê vất vả cực nhọc hun đúc nên một A Phủ có cá tính mạnh mẽ, táo bạo. Vừa xuất hiện, A Phủ đã lôi cuốn người đọc bằng những hành động mạnh mẽ, dữ dội: “chạy vụt ra”, “vung tay ném”, “xộc tới nắm” “kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp…”. A Phủ là một người thẳng thắn, nóng tính, thật thà, chất phác. A Phủ đánh A Sử để trừng trị thói con quan ỷ thế làm càn. Anh bị người nhà thống lí bắt, đánh suốt đêm đến mức “mặt A Phủ sung lên, môi và đuôi mắt chảy máu”, “hai đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù”. Dù vậy, A Phủ “chỉ im như cái tượng đá” thể hiện sự gan góc, dám làm dám chịu. Khi đã phải sống thân phận của kẻ làm công trừ nợ, anh vẫn là chàng trai của tự do. Dù phải quanh năm một mình “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa…”, việc gì A Phủ cũng làm phăng phăng chẳng hề tính toán thiệt hơn.
Vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất một con bò, A Phủ thật thà vác về nửa con bò hổ ăn dở và thản nhiên nói với thống lí “cho tôi mượn cây súng. Tôi đi lấy con hổ về”. Anh coi đó là một việc rất dễ dàng. Thống lí không cho, anh cãi lại cũng rất điềm nhiên. Anh không biết sợ cái uy của bất kỳ ai. Con hổ hay thống lí cũng thế thôi. Kể cả khi lặng lẽ đi lấy cọc và dây mây rồi đóng cọc để người ta trói đứng mình chết thế mạng cho con vật bị mất, A Phủ cũng làm việc ấy một cách thản nhiên. Là người mạnh mẽ, gan góc, A Phủ không sợ cả cái chết.
Bị trói đứng, đói, khát trong cái lạnh cắt da, A Phủ không cam chịu, anh nhai đứt hai vòng dây trói, song không thoát. A Phủ khóc tuyệt vọng. Nước mắt của chàng trai mạnh mẽ, yêu tự do phải cay đắng buông tay trước số phận nghiệt ngã làm rung động trái tim người đọc. Ta càng thấy rõ hơn bộ mặt tàn bạo của chế độ phong kiến, chúa đất ở miền núi khi xưa.
Nhân vật A Phủ đã được khắc họa thành công, sở trường quan sát nhạy bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố giúp nhà văn dựng được một hình tượng đặc sắc chỉ bằng mấy nét đơn sơ. Thông qua nhân vật A Phủ, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm càng đậm nét.
Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 4Tôi đã từng đọc ở đâu đó “Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của người nghệ sĩ dành cho con người mà hạt nhân căn bản là lòng yêu thương con người”. Và tôi biết một người nghệ sĩ như thế – một nhà văn viết về Tây Bắc bằng cả tấm lòng của mình, cả niềm thương nỗi nhớ luôn thường trực trong trái tim – Tô Hoài! Trong số những thành công của ông, không thể không nhắc đến “Vợ chồng A Phủ”- truyện ngắn mang giá trị sâu sắc, đặc biệt là hình ảnh nhân vật A Phủ.
Nếu hôm nay ta có “thấy Nguyễn Nhật Ánh trong tuổi thơ” thì Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài là quyển sách gối đầu của hàng triệu thiếu niên Việt Nam. Tô Hoài – nhà văn có lối viết rất riêng: đậm đà bản sắc dân tộc với những sáng tác thiên về sự thật đời thường. Ông có quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh độc đáo có phần quyết liệt “viết văn là quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Trong chuyến đi thực tế dài tám tháng tại Tây Bắc với đồng bào các dân tộc thiểu số cùng ăn, cùng ở, cùng chung sống… Chính cuộc sống ấy đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo để nhà văn hoàn thành tập Truyện Tây Bắc
A Phủ là nhân vật được tác giả cho xuất hiện khá đột ngột trong cuộc đánh nhau của thanh niên làng bên với A Sử rồi mới kể về lai lịch của nhân vật. Nhà văn để nhân vật đi vào trang văn bất ngờ, tự nhiên và đầy ấn tượng. A Phủ quê ở Háng-bla và tuổi thơ đã phải gánh chịu một tai họa khủng khiếp cướp đi cả gia đình anh. A Phủ gan dạ, vừa ngang bướng đã trốn lên núi khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, ngày qua ngày, mùa qua mùa, A Phủ trưởng thành với biết bao những phẩm chất tốt đẹp của người lao động miền núi “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”, “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”.
Một mình bươn trải, A Phủ đủ mạnh mẽ, gan góc, sống tự do phóng khoáng thì kết thúc bị trói buộc cả cuộc đời tại nhà thống lí. Chính sách áp bức của chúa đất đã đẩy người lao động phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời. Cảnh xử kiện A Phủ là minh chứng rõ ràng nhất về cách áp chế kiểu trung cổ ở miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt “tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp” và “Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kẻ, chửi, lại hút”, cứ thế suốt từ trưa cho đến hết đêm. Riêng A Phủ chỉ âm thầm chịu đựng, nuốt đắng cay mà chịu đòn đầy đau đớn.
Cảnh Pá Tra trói đứng A Phủ như một tình cảnh bị trói chờ chết như năm nào mà cô Mị đã phải chịu. Mị không lấy làm lạ. Bởi Mị đã quá quen với những tội ác thế này và Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực mà thôi. Nhưng đến một đêm, khi Mị trở dậy thổi lửa sưởi rồi lé mắt trông sang, thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Chính dòng nước mắt đau đớn đã làm sống dậy ý thức và tình cảm của Mị. Ký ức sống dậy, Mị nhớ lại những nỗi đau đớn khi bị trói đứng vào cột, nhớ đến một người đàn bà khác đã từng bị trói đến chết. Tình thương người còn lớn ngàn lần nỗi sợ hãi. Nó tiếp thêm sức mạnh và bản lĩnh để Mị hành động cứu A Phủ. Và Mị đã tự cắt sợi dây trói buộc đời mình với nhà Pá Tra và chạy theo A Phủ. Mặc dù đây chỉ là những hành động đấu tranh tự phát, nhưng cũng chính từ những khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ ấy thôi thúc họ phải đấu tranh để sống và được sống.
Nguyễn Minh Châu từng viết “Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn của con người”. Với Tô Hoài, ông không chỉ tìm kiếm, phát hiện mà còn khơi nguồn vực dậy trong tâm hồn Mị sức sống, khao khát sống tưởng như đã bị héo mòn, bị chôn vùi bởi những thế lực tàn bạo. Qua đó nhà văn khéo léo gửi quan niệm về cuộc sống của bản thân vào nhân vật của mình rằng: Con người lao động, trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ luôn giữ bản lĩnh và sẵn sàng đấu tranh cho chính hạnh phúc của bản thân mình.
……………….
Phân tích nhân vật A Phủ đầy đủ nhất Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 1Những câu thơ của Chế Lan Viên gợi nhắc cho bạn đọc về một vùng đất Tây Bắc với nhiều hoang sơ, bí ẩn. Khám phá Tây Bắc đâu chỉ có những hồn thơ của Chế Lan Viên. Ta còn từng bắt gặp Tô Hoài với riêng một tập truyện viết về phong tục về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Trong đó truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện ngắn tiêu biểu nhất của tập truyện Tây Bắc. Truyện ngắn thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật và A Phủ là nhân vật tiêu biểu trong toàn bộ câu chuyện.
Tô Hoài là một nhà văn lớn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt đến kỷ lục. Hầu hết sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả sự thật của đời thường với trần thuật hóm hỉnh, sinh động hấp dẫn. Sáng tác của ông thể hiện sự am hiểu sâu sắc về cuộc sống con người phong tục cũng như sinh hoạt của người dân Tây Bắc.
Vợ chồng A Phủ được trích từ tập truyện Tây Bắc sau chuyến đi thực tế của Tô Hoài năm 1952 trong một lần lên Tây Bắc. Truyện hướng tới phản ánh số phận của những người lao động miền núi Tây Bắc, đi từ số phận khổ đau đến cuộc đời mới tự do.
A Phủ là chàng trai người H’mông nghèo khổ bất hạnh. Mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ, bị người làng đem bắt bán cho người Thái ở dưới thấp, sau đó A Phủ trốn ngược về vùng cao và sống lưu lạc khắp vùng Hồng Ngài, đi ở cho hết nhà này đến nhà kia. Đến tuổi trưởng thành, A Phủ vẫn nghèo, chỉ có hai bàn tay trắng nên không lấy nổi vợ.
Nhưng A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, cường tráng, cần cù, dũng cảm và tài ba: đốt rừng, làm nương, cuốc nương, chăn bò, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình tăng và biết đục cuốc. Đặc biệt, A Phủ luôn khao khát cuộc sống tự do phóng khoáng. Ngay từ khi mới lên mười, cậu bé A Phủ đã không chịu sống cùng người Thái dưới chân núi mà muốn trở lại vùng cao, chấp nhận cuộc sống nơi nay đây mai đó nhưng được là con chim của núi rừng tự do.
Từ một chàng trai tràn đầy sinh lực, bản tính mạnh mẽ, kiên cường luôn khao khát cuộc sống tự do, phóng khoáng. A Phủ bị giai cấp thống trị tàn bạo cột chặt vào kiếp đời nô lệ đau đớn tủi nhục. Nhưng nếu như nỗi khổ của Mị triền miên, dai dẳng, thầm lặng thì nỗi khổ của A Phủ được miêu tả tập trung qua hai cảnh đó là cảnh sự kiện phạt và và cảnh A Phủ bị trói đứng vì làm mất bò.
Cảnh sự kiện phạt vạ diễn ra chỉ vì A Phủ đã dám đánh lại con quan chính là A Sử rồi khiến cho A Phủ bị bắt về nhà thống lý chịu kiện. Một phiên tòa đặc biệt lạ lùng và tàn bạo đến mức chưa từng có. Công đường là nhà thống lí, quan tòa lại chính là thống lí Pá Tra. Thành phần tham gia xét xử đông đảo với đầy đủ chức sắc trong vùng, trịnh trọng trang nghiêm, chỉ có nằm hút thuốc phiện và ăn cỗ.
Nhân trứng lại là đám trai làng- những công cụ của thống lý. Còn bị cáo A Phủ thì không được trình bày, không được nghe luận tội mà chỉ luôn quỳ im mà chịu đòn. không khí phiên tòa diễn ra đầy nhốn nháo, náo loạn của tiếng kể, chửi bới, đấm đá và tiếng rít thuốc phiện, khói thuốc phiện ngào ngạt tuồn qua các ô cửa. Kết thúc xử kiện, A Phủ phải chịu một số tiền phạt và khổng lồ và phi lý.
Ngoài tiền cho người bị đánh, cũng phải trả toàn bộ tiền cho các quan, cho người đi gọi các quan về, toàn bộ số tiền hút thuốc phiện từ hôm qua đến hôm sau và cả một con lợn cho làng ăn cỗ. Tất cả lên tới một trăm đồng bạc trắng và Pá Tra thừa biết A Phủ không thể nào có tiền trả cho nên hắn đã cho A Phủ vay nợ, suốt đời làm trâu làm ngựa trả nợ cho hắn: đời mày, đời con, đời cháu mày bao giờ hết nợ tao mới thôi”.
Advertisement
Để sợi dây trói buộc thêm chắc chắn khi thì Pá Tra gọi con ma về nhận mặt người vay nợ rồi toàn bộ số bạc cho A Phủ vay lại hoàn nguyên vào túi của thống lý. Cuộc sống nô lệ tủi nhục của A Phủ bắt đầu từ giây phút ấy. Đau đớn, chân bước đi tập tễnh, A Phủ phải cầm dao đi giết lợn làm cỗ cho những kẻ vừa đánh đập chửi bới phạt vạ mình.
Và từ một chàng trai khỏe mạnh, dũng cảm, khao khát cuộc sống tự do, A Phủ đã phải sống một kiếp đời như trâu ngựa cùng với đàn trâu đàn ngựa nhà thống lý. Qua cách sự kiện phạt vạ, nhà văn Tô Hoài đã tố cáo bản chất tham lam, độc ác của giai cấp thống trị miền núi. Chúng đã dùng mọi thủ đoạn thâm độc để áp mức cột chặt những con người lao động tự do vào kiếp đời nô lệ để bóc lột họ đến kiệt cùng.
Chỉ vì sơ ý làm mất một con bò nhà thống lý mà A Phủ phải chịu một hình phạt thật thảm khốc. Nỗi khổ nhục của A Phủ trước hết là tự tay đào lỗ chôn cột, lấy dây mây để cho người khác trói mình. A Sử đã trói A Phủ một cách tàn nhẫn: trói đứng A Phủ bằng một cuộn dây mây đến khi thống lý vào lại thòng thêm hai thòng lòng vào cổ làm cho A Phủ không cựa quậy được rồi bỏ mặc A Phủ trong đau đớn, đói rét cho tới chết để đền mạng cho con bò của gia đình thống lý.
Qua đó, ta thêm hiểu về tội ác dã man tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi Chúng coi sinh mạng của con người không bằng con vật và càng hiểu thêm nỗi thống khổ con người lao động khi bị đẩy vào kiếp đời nô lệ. Họ đã bị tước đoạt hoàn toàn quyền sống, quyền làm người.
Khi còn là một cậu bé lên mười, A Phủ chấp nhận sống nghèo khổ đi ở cho hết nhà này đến nhà khác để sống tự do và khi chứng kiến A Sử quấy rối phá đám cuộc chơi, A Phủ đã đánh hắn dù biết rằng đó là con quan. Trong cảnh xử kiện tàn bạo của thống lí Pá Tra, A Phủ không khóc, không kêu rên mà chỉ quỳ yên như cái tượng đá để chịu đòn.
Trước thế lực cường quyền ghê gớm, A Phủ đã bất lực phải chịu đựng nhưng ẩn trong thái độ đó là sự thách thức sự phản kháng ngầm. Trong đêm A Phủ bị trói đứng, chàng trai ấy đã nhay đứt mấy vòng dây mây để tự giải thoát cho mình. Chỉ khi bị cho thêm hai thòng lọng vào cổ, A Phủ mới bất lực.
Sức mạnh của tinh thần phản kháng và lòng khao khát rõ nhất khi A Phủ được Mị cởi trói. A Phủ đã ngã quỵ xuống vì kiệt sức nhưng sau đó A Phủ đã quật tức vùng lên chạy khỏi nhà thống lí. Có lẽ lòng khao khát được sống, được tự do và tinh thần phản kháng ở chàng trai nô lệ ấy đã tạo nên nguồn sức mạnh vô biên khiến cho A Phủ không chỉ được cứu mình mà còn cứu được Mị chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra, để được sống tự do chấm dứt kiếp đời nô lệ.
Tô Hoài đã xây dựng nhân vật A Phủ bằng bút pháp điển hình hóa, vừa cụ thể vừa khái quát. Cả A Phủ và Mị đều có những phẩm chất số phận tương đồng nhưng cách khắc họa nhân vật của nhà văn đã có những thay đổi và sáng tạo để phù hợp với con người hiện thực. A Phủ là được khắc họa qua ngôn ngữ và hành động. Những biểu hiện, lời nói và hành động của A Phủ thường ngắn gọn, dứt khoát quyết liệt rất phù hợp với tính cách và góp phần thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.
Khép lại trang viết về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ với hình ảnh của A Phủ và Mị đã để lại trong người đọc nhiều suy nghĩ. Nhà văn đã rất thành công khi tái hiện được hình ảnh của A Phủ và Mị với những sức sống với sức mạnh phản kháng vươn lên mạnh mẽ bất chấp hoàn cảnh. Tác phẩm sẽ sống mãi cùng với thời gian và đồng hành cùng bạn đọc các thế hệ.
Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 2Cuộc sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo để Tô Hoài hình thành Truyện Tây Bắc trong đó có Vợ chồng A Phủ. Vợ Chồng A Phủ đã đặt ra vấn đề về số phận con người, những con người bị bóc lột cả về thể xác lẫn tâm hồn. Một trong những số phận đầy bất hạnh đó chính là nhân vật A Phủ.
A Phủ có một cuộc đời đầy khổ đau tủi nhục. Ngay từ nhỏ, A Phủ đểu mồ côi cha mẹ. Năm đó, làng Háng -Bla phải một trận bệnh đậu mùa. Anh của A Phủ, em A Phủ chết, bố mẹ A Phủ cũng chết. Chỉ còn sót lại có một mình A Phủ. Cuộc đời A Phủ từ đó bơ vơ vất vưởng.
Cũng chỉ vì cái đói, vì miếng ăn mà A Phủ bị người ta bắt đem đổi lấy thóc. Có một người trong làng vì đói quá đã nhẫn tâm bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy cắp của người Thái dưới cánh đồng. Nhưng với bản tính ngang bướng, A Phủ tìm cách trốn lên núi và lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ đó A Phủ sống một cuộc sống phiêu bạt. Cuộc đời anh không nhà cửa, không ruộng nương, phải đi làm thuê hết nhà này đến nhà khác.
Năm tháng qua đi, chẳng bao lâu A Phủ đã biết hết các công việc. Cuộc sống đã rèn luyện A Phủ thành một con người vững chãi. A Phủ biết đúc lưỡi cày, lưỡi cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo. A Phủ lại rất khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê. Có người còn khen rằng: “đứa nào được A Phủ cũng bằng con trâu tốt trong làng”.
Tuy nghèo khó, khổ cực nhưng A Phủ cũng sống đầy khát khao. Ngày Tết đến, A Phủ chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng vía lằn trên cổ, A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, con quay và quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các làng trong vùng. Anh ung dung tự tại giữa cuộc sống đầy khắc nghiệt chốn Hồng Ngài.
Thế nhưng, vận rủi đã đến với anh và chuyển hướng cuộc đời anh đến chỗ thảm khốc. Vì xích mích với đám trai làng trong lúc đi chơi, A Phủ đã đánh A Sử, con trai thống lí Pá Tra đến chảy máu. Hành động bột phát ấy đã mang tai họa đến với A Phủ. Anh bị đám trai làng bắt trói và đưa về nhà thống lí để chịu tội.
Từ một thanh niên tự do bỗng dưng A Phủ trở thành nô lệ. Cuộc đời nhân vật A Phủ là điển hình của cảnh áp bức bóc lột ở chốn Hồng Ngài. Bọn thống trị dựa vào đầu óc mê tín của người dân, lợi dụng cường quyền và thần quyền để áp bức, bóc lột sức lao động của họ.
Qua cảnh sử kiện tại nhà thống lý, Tô Hoài đã cho người đọc thấy được bộ mặt dã man tàn bạo của bọn thống trị miền núi. Bọn thống trị bằng sức mạnh của mình đã chà đạp lên quyền sống của con người, tước đoạt ở họ quyền làm người tự do. Không những thế, chúng còn hành hạ thân xác con người tàn tệ như đối xử với thú vật.
A Phủ bị bắt khiêng về ném xuống nhà như một con vật. Thế rồi suốt từ trưa đến chiều, thâu đêm đến sáng hôm sau, bọn chức dịch lợi dụng việc sự kiện kéo đến ăn cỗ và thi nhau hút thuốc phiện. Còn A Phủ suốt đêm đó phải quỳ giữa nhà chịu đòn. Cứ sau một đợt hút thuốc phiện lại một lần A Phủ bị đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. A Phủ đau lắm nhưng không biết kêu ai. Anh chỉ có một mình, còn bọn chúng thì quá đông. Anh là kẻ có tội, còn bọn chúng dựa vào cả cường quyền, lẫn thần quyền để khuất phục, chế ngự và hành hạ anh. Mọi người biết nhưng không ai nói gì, làm gì. Vì họ cũng tin vào thứ cường quyền và thần quyền ấy.
Cuối cùng A Phủ bị phạt vạ một trăm đồng bạc trắng. A Phủ không có tiền nộp nên phải ở làm kẻ lao động trừ nợ cho nhà thống lí. bản án ấy được khẳng định qua lời của tên thống lí: “bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở lại làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.
Đau đớn hơn đó là khi A Phủ phải đứng lên cầm con dao, ra chọc tiết, làm thịt lợn để làm cỗ hầu chính những kẻ đã biết anh thành nô lệ. Như vậy, sống trong hoàn cảnh mà mọi quyền lực đều nằm trong tay giai cấp thống trị, số phận của những người dân nghèo thật bi thảm. Họ có thể bị đánh đập dã man, bị chết bất cứ lúc nào.
Cuộc đời A Phủ từ đây rơi vào bóng tối cùng cực. A Phủ chính thức trở thành nô lệ, là công cụ lao động trong nhà thống lý Pá Tra. Quanh năm suốt tháng anh chỉ làm việc quần quật chỉ một thân một mình. A Phủ hết đốt rừng, cuốc nương rồi lại săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa. Quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng. Anh chìm ngập trong cả núi công việc, không bao giờ ngơi tay. Cả ngày mưa lẫn ngày nắng người ta thấy lúc nào A Phủ cũng phải làm việc. Lâu dần anh quên cả ý nghĩa của sự tồn tại bản thân, quên hẳn những khát khao của tuổi trẻ.
Tưởng chừng số phận đã an bài số phận A Phủ sẽ là người nô lệ suốt đời suốt kiếp. Rồi anh sẽ chết khi không còn sức lực để làm việc nữa. Thân xác anh sẽ trở về với đất. Cái tên A Phủ sẽ không còn ai nhắc đến. Thế nhưng, một sự việc xảy đến, một lần nữa, cuộc đời A Phủ lại chuyển hướng. Bánh xe số phận lại gập ghềnh.
Lần đó, chỉ do mải mê bẫy dính mà anh để hổ bắt mất bò. Mất một con bò khiến cho thống lý Pá Tra vô cùng giận dữ. Nó trói đứng A Phủ vào cột suốt mấy ngày mấy đêm phải chịu đói, chịu rét cho đến khi A Sử và bọn trai làng giết được con hổ ấy thì chúng mới tha cho anh. Với sức của A Sử và bọn trai làng nghiện hút, A Phủ không tin chúng sẽ bắt được con hổ. A xin đi bắt hổ nhưng chúng không chịu. Chúng lo sợ anh sẽ bỏ trốn. Và thiếu chút nữa A Phủ đã phải trả giá bằng cả tính mạng của mình nếu không được Mị giải thoát.
Thông qua biểu phản ánh số phận đầy đau thương của nhân vật A Phủ, nhà văn tố cáo mạnh mẽ giai cấp thống trị độc ác đồng thời bày tỏ niềm đồng cảm sâu sắc đối với người dân nghèo. Trong con người của A Phủ, người đọc còn cảm nhận được ở anh những phẩm chất tốt đẹp. Đó là sự ý thức của A Phủ về quyền làm người. Ngay từ nhỏ A Phủ đã thể hiện sự dũng cảm của mình. A Phủ không chấp nhận sống dưới cánh đồng thấp nên đã trốn lên núi cao. Còn khi bị bọn A Sử phá đám trong buổi chơi tết, A Phủ để xông ra đánh A Sử mà không hề nghĩ rằng đó là con quan: “A Phủ sốc tới, nắm có vòng cổ (dấu hiệu con nhà quan) kéo dập đầu xuống, xé vai áo,đánh tới tấp”.
Khi bị bắt, bị đánh đập, A Phủ không hề kêu van. Anh không hề van xin mà lì như tượng đá. Ngay cả khi làm mất bò, A Phủ thản nhiên vác nửa con bò còn lại về ném xuống gốc đào trước cửa. Anh không chấp nhận chịu trói mà đòi lấy súng để đi bắn hổ. Anh nói dõng dạc: “cho tôi đi. Được con hổ ấy còn nhiều hơn con bò, cho tôi khỏi tội”. Đó là anh tự tin vào bản thân. Bị thống lý trói đứng vào cột, đến đêm A Phủ tìm cách nhay đứt hai vòng dây. Phải chăng, đó chính là ý thức của sự phản kháng trong con người A Phủ.
Khi được Mị giải thoát, dù chân khụy xuống, không bước đổi nhưng đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết A Phủ đã quật sức vùng lên chạy. Anh còn cứu thoát cả cuộc đời nô lệ của Mị. Sự vùng lên tự giải thoát cho chính mình của A Phủ (và Mị) tiêu biểu cho sự vươn lên của đồng bào dân tộc miền núi. Cho dù đó chỉ là sự tự phát nhưng đó là tiền đề cho sự vươn tới ánh sáng của Đảng ở chặng đời sau này của A Phủ.
Mặc dù không được Tô Hoài dành cho nhiều trang viết nhưng nhân vật A Phủ cũng thể hiện sự thành công của nhà văn trong bút pháp khắc họa nhân vật. Thông qua việc phản ánh số phận của A Phủ, nhà văn còn lên tiếng tố cáo tội ác của giai cấp thống trị phong kiến miền núi đồng thời bộc lộ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình.
Qua cuộc đời và số phận của nhân vật A Phủ, truyện thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi. Nhà văn trực tiếp phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người. Truyện khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc.
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ đặt ra vấn đề số phận con người, những con người dưới đáy xã hội, những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Thông qua cuộc đời đầy khổ đau, tủi nhục và sức mạnh vươn lên của nhân vật A Phủ và nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã đã chỉ ra con đường giải thoát cho người dân tộc miền núi. Muốn vượt lên sức mạnh của cường quyền và thần quyền chỉ có một cách là tìm đến ánh sáng của cách mạng, làm cách mạng và tự giải phóng mình ra khỏi ách thống trị, làm chủ cuộc sống của chính mình.
……………..
Văn Mẫu Lớp 7: Viết Bài Văn Phân Tích Một Nhân Vật Văn Học Yêu Thích Trong Cuốn Sách Đã Đọc Dàn Ý &Amp; 4 Bài Văn Mẫu Lớp 7
Viết bài văn phân một nhân vật văn học yêu thích trong cuốn sách đã đọc
Nội dung chi tiết bao gồm dàn ý và 4 mẫu. Mời các bạn học sinh lớp 7 tham khảo để hoàn thiện bài viết của mình.
1. Mở bài
Giới thiệu ngắn gọn về nhân vật và nêu ấn tượng ban đầu về nhân vật.
2. Thân bài
– Bối cảnh và những mối quan hệ làm nổi bật đặc điểm nhân vật.
– Những đặc điểm nổi bật của nhân vật thể hiện qua các bằng chứng trong tác phẩm (chi tiết về ngoại hình, ngôn ngữ, hành động, suy nghĩ… của nhân vật).
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật: cách sử dụng chi tiết, ngôn ngữ, biện pháp, nghệ thuật…
– Ý nghĩa của hình tượng nhân vật.
3. Kết bài
Những bài học, suy nghĩ, ấn tượng sâu sắc mà nhân vật để lại trong tâm trí em.
“Bức tranh của em gái tôi” là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Tạ Duy Anh. Nổi bật trong truyện là nhân vật Kiều Phương – một cô bé nhân hậu, tài năng.
Nhà văn đã khắc họa Kiều Phương qua lời kể của “tôi” – người anh trai. Kiều Phương hiện lên là một cô bé hồn nhiên, nghịch ngợm. Cô bé rất thích lục lọi đồ vật trong nhà, tự chế màu vẽ bằng vật dụng có sẵn. Khuôn mặt của Kiều Phương lúc nào cũng bị bôi bẩn. Bởi vậy, người anh đã đặt cho cô bé biệt danh là “Mèo”. Mỗi lần bị nhắc nhở, Kiều Phương lại “vênh mặt” trả lời hồn nhiên “Mèo mà lại! Em không phá là được”.
Nhân vật Kiều Phương còn là một cô bé có tài năng hội họa. Chú Tiến Lê – một họa sĩ cũng là bạn của bố Kiều Phương đã tình cờ phát hiện ra điều đó. Khi nhìn thấy những bức tranh của Kiều Phương, chú đã phải thốt lên rằng cô bé “là một thiên tài hội họa” và các bức tranh “có thể đem đóng khung treo ở bất cứ phòng tranh nào”. Điều đó khiến cho Ba của Kiều Phương thì hết sức ngạc nhiên: “Con gái tôi vẽ đây ư? Chả lẽ lại đúng là nó, cái con Mèo hay lục lọi ấy!”, “Ôi, con đã cho bố một bất ngờ quá lớn”. Còn mẹ của Kiều Phương thì không kìm được xúc động trước lời khen của họa sĩ Tiến Lê dành cho con gái mình. Chú Tiến Lê tặng “đồng nghiệp” hẳn một hộp màu ngoại xịn”. Chỉ có người anh trai là tỏ ra bực bội, gắt gỏng, bởi cậu không thấy mình có năng khiếu gì và không còn thân thiết với em gái như trước.
Dù vậy, Kiều Phương vẫn yêu mến anh trai. Cô bé đem tình cảm đó vẽ thành bức tranh “Anh trai tôi”. Bức tranh đem đi dự thi trại thi vẽ tranh quốc tế và được giải nhất. Cô bé mong muốn anh trai đi nhận giải cùng. Đến khi nhìn thấy bức tranh của em gái, người anh đã vô cùng ngạc nhiên và xấu hổ. Cậu không ngờ rằng trong mắt em gái mình lại đẹp như vậy. Chính tình cảm chân thành, trong sáng của Kiều Phương đã giúp nhân vật “tôi” nhận ra sai lầm của bản thân.
Qua nhân vật Kiều Phương, Tạ Duy Anh đã đ ề cao tình yêu thương trong sáng, nhân hậu của con người. Nhân vật Kiều Phương hiện lên dưới ngòi bút của nhà văn đầy chân thực.
Truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa là một truyện ngắn xuất sắc viết về đề tài trẻ em của Thạch Lam. Nổi bật trong truyện là nhân vật Sơn – được nhà văn xây dựng đầy chân thực.
Truyện mở đầu với sự miêu tả tinh tế của nhà văn về sự thay đổi của thời tiết. Từ đó, nhân vật Sơn xuất hiện với những suy nghĩ, hành động hồn nhiên của một đứa trẻ. Cậu tung chăn tỉnh dậy, cậu thấy mọi người trong nhà, mẹ và chị đã trở dậy, ngồi quạt hỏa lò để pha nước chè uống. Mọi người đều “đã mặc áo rét cả rồi”. Ở ngoài sân “Gió vi vu làm bốc lên những màn bụi nhỏ, thổi lăn những cái lá khô lạo xạo. Bầu trời không u ám, toàn một màu trắng đục”. Những cây lan trong chậu “lá rung động và hình như sắt lại vì rét”. Và Sơn cũng thấy lạnh, cậu vơ vội cái chăn trùm lên đầu rồi gọi chị. Mọi người trong gia đình đều đã được mặc áo ấm. Sơn cũng được mẹ mặc cho một chiếc áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh, ngoài lại mặc phủ cái áo vải thâm. Qua cách giới thiệu này, có thể thấy Sơn được sinh ra trong một gia đình khá giá, nhận được tình yêu thương của mọi người xung quanh.
Nhưng không vì thế mà cậu trở nên kiêu ngạo hay xa cách. Sơn là một cậu bé rất giàu tình cảm. Điều đó được thể hiện qua tình cảm với người em gái đã mất. Khi mọi người nhắc đến Duyên – đứa em gái đáng thương của Sơn đã mất năm lên bốn tuổi. Người vú già đã “với lấy cái áo lật đi lật lại ngắm nghía, tay mân mê các đường chỉ”. Sơn cũng cảm thấy “nhớ em, cảm động và thương em quá”. Cậu xúc động khi thấy mẹ “hơi rơm rớm nước mắt”. Hay như cách cư xử của Sơn với bọn trẻ con trong xóm – Thằng Cúc, thằng Xuân, con Tí, con Túc – những đứa trẻ em nghèo khổ vẫn phải mặc những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ. Hai chị em Sơn tỏ ra thân thiết với chúng chứ không khinh khỉnh như các em họ của Sơn.
Đặc biệt nhất là hành động của Sơn đối với bé Hiên. Khi thấy Hiên đang đứng “co ro” bên cột quán, trong gió lạnh chỉ mặc có manh áo “rách tả tơi”, “hở cả lưng và tay”. Sơn cảm thấy thương xót cho con bé. Sơn chợt nhớ ra mẹ cái Hiên rất nghèo, nhớ đến em Duyên ngày trước vẫn cùng chơi với Hiên ở vườn nhà. Một ý nghĩ tốt thoáng qua trong tâm trí Sơn – đó là đem chiếc áo bông cũ của em Duyên cho Hiên. Nghĩ vậy, cậu đã nói với chị gái của mình, nhận được sự đồng tình của chị. Chị Lan đã “hăm hở” chạy về nhà lấy áo. Còn Sơn thì đứng yên lặng đợi chờ, trong lòng tự nhiên thấy “ấm áp vui vui”. Có thể thấy rằng, nhân vật Sơn tuy còn nhỏ tuổi, nhưng đã giàu lòng yêu thương.
Như vậy, nhà văn Thạch Lam đã xây dựng truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” nhẹ nhàng mà thật sâu sắc. Cả tác phẩm thấm thía tình yêu thương giữa con người.
“Thép đã tôi thế đấy” là một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Nikolai A. Ostrovsky – một nhà văn nổi tiếng người Liên Xô. Nhân vật chính của tác phẩm là Pavel Korchagin (thường được gọi là Pavlusha, Pavka).
Pavel Korchagin sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn. Anh chơi thân với một cô bạn gái tên là Tonya, mà sau này trở thành người yêu. Tonya là một cô gái xinh xắn, yêu Pavel với tất cả tình cảm ban đầu trong trắng ngây thơ của một thiếu nữ mới lớn. Tình cảm của hai người có lẽ sẽ rất đẹp và trọn vẹn nếu như không có chuyện Pavel đi theo tiếng gọi của lý tưởng giai cấp lúc đó. Đó là ý tưởng muốn cống hiến sức trẻ của mình phục vụ cho Tổ quốc, cho cách mạng. Tonya rất yêu Pavel nhưng không thể đợi anh, hay đúng hơn là không dám “yêu một lý tưởng”. Đặc biệt là khi gia đình của cô lại thuộc giai cấp tư sản. Pavel từng nói với cô rằng: “Anh trước hết là người của Đảng – sau đó mới là người của em và những người thân khác. Em có gan yêu một công nhân, nhưng lại không có gan yêu một lý tưởng”. Sau cùng, Pavel chia tay Tonya để đi theo lý tưởng của mình.
Trước khi tìm đến ánh sáng của cách mạng, Paven đã có một khoảng thời gian phải tham gia xây dựng con đường sắt nhỏ nối khu rừng với thành phố. Công việc ở đây vô cùng nặng nhọc và vất vả trước thiên nhiên khắc nghiệt. Nếu không kịp thì tất cả mọi người trong thành phố này sẽ chết cóng vì không đủ gỗ để sưởi ấm. Trong hoàn cảnh đó, anh gặp lại Tonya, và cô đã suýt không nhận ra anh vì trông anh đã hoàn toàn khác, rách rưới, tím tái vì giá lạnh, gầy gò như một người ăn xin và đang xúc tuyết, tuy có đôi mắt thì vẫn là Pavlusha ngày nào. Tuy nhiên, cô đã không dám bắt tay anh khi anh đưa tay ra và anh hiểu rằng, tình cảm cũ giữa hai người vĩnh viễn không còn nữa. Cô giờ đây đã có chồng và “sặc mùi băng phiến”.
Sau này, trong quá trình lao động và sinh hoạt trong tổ chức Đảng, Pavel đã gặp Rita và được cô quý mến. Nhưng tình cảm giữa hai người chỉ giữ ở tình đồng chí… Về sau, có lúc Pavel bị bệnh sốt thương hàn và bị bại liệt, phải ngồi xe lăn. Nhưng anh vẫn không lùi bước trước khó khăn, tin tưởng vào tình yêu mới và chuyển sang viết sách vẫn với ngọn lửa và chất thép đã được tôi luyện ngày nào. Paven là một thanh niên giàu lý tưởng, được tôi luyện trong “lò lửa” của cách mạng. Anh đã trở thành tấm gương cho cho thế hệ Việt Nam nói riêng trong giai đoạn đất nước bị xâm lược.
Khi đọc cuốn sách này, nhân vật Paven đã để lại cho tôi những ấn tượng sâu sắc, giúp tôi nhận ra nhiều bài học giá trị.
“Dế Mèn phiêu lưu ký” là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Tô Hoài. Nổi bật trong tác phẩm là nhân vật chính – Dế Mèn hiện lên đầy chân thực, sinh động.
Dế Mèn được xây dựng với nhưng đặc điểm của một nhân vật trong truyện đồng thoại. Dế Mèn vừa mang những đặc điểm của loài dế, lại vừa có những đặc điểm của con người. Trước hết, Tô Hoài đã khắc họa nhân vật này qua những nét ngoại hình. Một chàng dế khỏe mạnh. cường tráng với một đôi càng “mẫm bóng” cùng “những cái móng vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dần và nhọn hoắt”. Nhà văn đã có những câu văn miêu tả: “rung rinh một màu nâu bóng mỡ soi gương được và rất ưa nhìn”. Đầu của Dế Mèn còn “to ra và nổi từng tảng, rất bướng”. Cùng với hai cái răng thì đen nhánh và “lúc nào cũng nhai ngoàm ngoạp như hai lưỡi liềm máy làm việc” và sợi râu “dài và uốn cong một vẻ rất đỗi hùng dũng”. Không chỉ ngoại hình, mà hành động của Dế Mèn cũng cho thấy được sự khỏe mạnh, cường tráng. Với những cái móng vuốt nhọn hoắt của mình, Dế Mèn đã “co cẳng lên đạp phanh phách vào các ngọn cỏ” để muốn thử sự lợi hại của chúng. Rồi “Cứ chốc chốc tôi lại trịnh trọng và khoan thai đưa cả hai chân lên vuốt râu”, “thỉnh thoảng, tôi ngứa chân đá một cái”.
Advertisement
Tiếp đến, nhà văn đã xây dựng tính cách của nhân vật Dế Mèn. Chàng ta mang những nét tính cách của con người: kiêu căng, ngạo mạn và hống hách. Điều đó được thể hiện qua thái độ với nhân vật Dế Choắt. Khi thấy Choắt trông thật gầy gò và ốm yếu. Dế Mèn không những không đồng cảm, mà còn chế giễu bạn của mình. Một lần sang chơi nhà Choắt, Dế Mèn lên tiếng chê bai: “Sao chú mày sinh sống cẩu thả quá như thế. Nhà cửa đâu mà tuềnh toàng…Ôi thôi, chú mày ơi! Chú mày có lớn mà chẳng có khôn..”. Hay khi Choắt bày tỏ ý muốn Dế Mèn đào một cái ngách sang bên nhà của Mèn, để khi có kẻ đến bắt nạt thì giúp đỡ nhau. Nhưng Dế Mèn lại khinh khỉnh: “Hức! Thông ngách sang nhà ta? Dễ nghe nhỉ? Chú mày hôi như cú mèo thế này, ta nào chịu được. Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi. Đào tổ nông thì cho chết!”.
Cái dáng vẻ yếu đuối của Dế Choắt khiến cho Dế Mèn cảm thấy khinh khỉnh, coi thường. Đặc biệt nhất là tình huống dẫn đến cái chết thương tâm cho Choắt. Dế Mèn đã ngông cuồng trêu tức chị Cốc khiến chị ta nổi giận. Dế Choắt yếu ớt bị vạ lây, bị chị Cốc mổ cho đến chết. Cái mỏ của chị Cốc cứ thế giáng xuống thân hình gầy gò của Dế Choắt, đến khi chị đi rồi nó mới dám ra ngoài. Nó nhìn thấy bạn của mình không thể dậy được nữa cùng với những lời trăng trối, Dế Mèn vô cùng đau khổ, ân hận. Nhờ cái chết của Dế Choắt, Dế Mèn đã nhận ra bài học đường đời đầu tiên.
Nhà văn Tô Hoài đã xây dựng hình ảnh nhân vật Dế Mèn trong đoạn trích “Bài học đường đời đầu tiên” nhằm gửi gắm một bài học nhân văn sâu sắc.
Phân Tích Nhân Vật Chị Dậu ❤️️ 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Chị Dậu ❤️️ 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Giới Thiệu Tuyển Tập Bài Viết Đặc Sắc Được Chọn Lọc Phân Tích Hình Tượng Nhân Vật.
I. Mở bài phân tích nhân vật chị Dậu:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Ngô Tất Tố là nhà văn xuất sắc viết về đề tài người nông dân trước Cách mạng Tháng Tám. Tác phẩm “Tắt đèn” của ông được giới phê bình đánh giá cao, vừa giàu giá trị nội dung và đặc sắc về nghệ thuật viết truyện.
Giới thiệu nội dung cần phân tích: Trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” trong tiểu thuyết “Tắt đèn”, nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu.
II. Thân bài phân tích nhân vật chị Dậu:
1.Hoàn cảnh sáng tác:
Tác phẩm “Tắt đèn” viết năm 1936, xã hội bấy giờ là thực dân nửa phong kiến, người nông dân phải chịu nhiều tầng áp bức. Đời sống nhân dân đói khổ, bần cùng, đất nước lầm than, nô lệ.
Nhân vật chị Dậu đã góp một mảng màu chân thực vào hiện thực bấy giờ, đồng thời còn thể hiện chiều sâu tư tưởng và nhân đạo của nhà văn.
2.Phân tích nhân vật chị Dậu:
a. Phân tích số phận của nhân vật chị Dậu:
Có hoàn cảnh đáng thương.
Là người nông dân nghèo, vì gánh nặng sưu thuế mà phải bán hết gánh khoai, ổ chó và đứa con gái là cái Tý cho ông Nghị Quế nhưng chỉ đủ nộp sưu cho chồng. Chú Hợi là anh ruột của anh Dậu chết từ năm ngoái nhưng cũng không tránh khỏi nộp sưu.
Anh Dậu đang ốm nặng, bọn cường trói anh suốt ngày đêm sai tay chân vác anh về như cái xác chết rũ rượi. Mọi gánh nặng đổ dồn lên vai chị.
Gánh nặng sưu thuế đã dồn người nông dân vào cuộc sống lầm than cơ cực. Đó là giai đoạn với bao nỗi kinh hoàng khi bọn thực dân phong kiến ra sức bóc lột nông dân với đủ mọi thứ thuế. Chị Dậu cũng như bao người nông dân bấy giờ là nạn nhân trong xã hội ấy.
b. Phân tích phẩm chất của nhân vật chị Dậu:
Người vợ, người mẹ giàu tình yêu thương
Trong cơn nguy kịch, chị Dậu tìm đủ mọi cách để cứu chồng. Khi chồng ốm, trước hàng loạt những tiếng trống thúc thuế, chị vẫn khẩn khoản, thiết tha mời chồng: ” Thầy em cố gắng ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột”. Hành động ấy chứa đựng biết bao tình yêu thương vỗ về.
Dũng cảm chống lại bọn cường hào để bảo vệ chồng
Bán đi đứa con mình đứt ruột đẻ ra, lòng người mẹ nào không đau cho được. Lòng chị chắc hẳn luôn quặn thắt luôn nhói đau.
Người phụ nữ đúng mực có cương có nhu
Lúc đầu khi bọn cường hào tới chị hạ mình van xin, lúc thì run run xin khất, lúc thì thiết tha xin chúng xem lại
Nhưng bọn chúng vẫn hống hách và còn có thái độ nặng nề hơn, chị không thể chịu được sự hống hách, hách dịch của bọn cai lệ nên đã đánh trả chúng.
Những hành động bộc phát vì quá sức chịu đựng vừa thể hiện tình yêu thương sâu sắc dành cho chồng, vừa tố cáo tội ác của xã hội phong kiến.
3.Đánh giá:
Nghệ thuật xây dựng nhân vật, sử dụng vốn từ ngữ giàu có sinh động
Ngô Tất Tố đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, qua đó thể hiện chiều sâu nhân đạo cũng như triết lý: Có áp bức thì sẽ có đấu tranh.
III. Kết bài phân tích nhân vật chị Dậu:
Cảm nhận về nhân vật: Chị Dậu đã để lại trong ta những ấn tượng sâu sắc. Qua đó ta thêm hiểu hơn về cuộc sống của người nông dân trong xã hội cũ đồng thời ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của họ.
Trong tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố, chị Dậu được miêu tả như một người phụ nữ rất mực dịu dàng. Vì áp bức bóc lột mà chị Dậu đành chịu đựng, nhẫn nhục và trong nghiều trường hợp chị là người có thể nhẫn nhục chịu đựng. Nhưng chị Dậu không thuộc loại người yếu đuối, chỉ biết than khóc.
Thông minh sắc sảo đảm đang tháo vát, chị Dậu còn tiềm tàng một khả năng phản kháng. Chả thế mà ngay giữa đình làng, trước mặt bọn hào lí chị đã dám “tru tréo”, kêu to lên sự bất nhân của chế độ sưu thuế thực dân, phong kiến: “Khốn nạn thân tôi! Trời ơi! Em tôi chết rồi còn phải đóng sưu hở Trời”.
Bị quăng từ đình làng về rồi được cứu sống, anh Dậu chỉ biết khóc cho cái Tí, khóc cho số phận của anh. Trái lại chị Dậu tỏ thái độ bất cần. Chị bình tĩnh khuyên giải chồng: “Còn như mấy đồng sưu, tuy có nóng thật, nhưng lo chưa kịp thì khất. Thịt người tanh chẳng ai ăn được thầy em cứ yên tâm nằm nghỉ chẳng phải lo lắng gì cả”.
Cảnh Tức nước võ bờ miêu tả tinh tế diễn biến tâm lí của nhân vật một cách nhất quán. Chị Dậu có thể nhịn nhục, chịu đựng, nhưng khi đã bị đẩy tới chân tường, thì cũng biết vùng lên chống trả quyết liệt thể hiện một khả năng phản kháng tiềm tàng.
Trước thái độ hung hăng, những lời quát tháo hách dịch của cai lệ, chị Dậu run run. Chị sợ thì ít mà lo cho chồng thì nhiều. Chị gọi cai lệ là ông và xưng cháu.Chị van xin cầu khẩn thiết tha: “Hai ông làm phúc nói với ông Lí hãy cho cháu khất…”, “Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông mắng chửi đến đâu cũng thế thôi. Xin ông trông lại!”.
Đến khi thẩy tính mạng của chồng bị đe doạ thái độ của chị thay đổi hoàn toàn. Chị vẫn cố van xin, nhưng vội vàng đặt đứa con đang bế xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay cai lệ, không để hắn đụng tới anh Dậu. Đang xưng hô ông – cháu, chị Dậu đã chuyển qua ông tôi với cai lệ. Người đàn bà bị đè nén uất ức đã liều mình đứng dậy tự đặt mình ngang hàng với cai lệ và cảnh cáo hắn: “Chồng tôi đang ốm đau ông không được phép hành hạ!”.
Thái độ của chị Dậu ngày càng quyết liệt. Người đàn bà dịu dàng bỗng trở nên đáo để. Chị hạ cai lệ xuống thứ “mày” và ngang nhiên thách thức: “Mày trói chồng bà đi bà cho mày xem!”. Chị Dậu đã quật ngã bọn tay sai hung ác trong tư thế ngang hàng bất khuất với sức mạnh kì lạ. Chị túm cổ lấy cai lệ ấn dúi ra cửa, làm hắn ngã chỏng kheo trên mặt đất miệng vẫn lảm nhảm trói vợ chồng kẻ thiếu sưu. Tên người nhà lí trưởng cũng bị chị Dậu túm tóc lẳng cho một cái ngã nhào ra thềm.
Giọng văn của Ngô Tất Tố trở nên hả hê. Dưới ngòi bút của ông hình ảnh chị Dậu trở nên thật khoẻ khoắn, quyết liệt biết bao nhiêu, thì hình ảnh bọn tay sai hung ác cũng trở nên hèn hạ và hài hước bấy nhiêu. Thấy chị Dậu quyết liệt quá anh Dậu vừa run vừa kêu: “U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì mình phải ngồi tù, phải tội”.
Nhưng tức nước thì tất yếu sẽ vỡ bờ. Nghe anh Dậu can, chị Dậu phần uất: “Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình làm tội mãi thế này tôi chịu không được…”. Câu nói mộc mạc đầy phẫn uất ấy giống như một lời tuyên ngôn hùng hồn cho quy luật: Có áp bức dứt khoát có đấu tranh.
Bằng ngòi bút đậm chất hiện thực, Ngô Tất Tố không chỉ vạch trần bộ mặt bất nhân của giai cấp cầm quyền mà còn cho thấy vẻ đẹp của người nông dân. Nhân vật chị Dậu là đại diện tiêu biểu cho người phụ nữ nông dân Việt Nam: giàu tình yêu thương và có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Đằng sau trang văn còn thể hiện thái độ trân trọng, ngợi ca với những người phụ nữ Việt Nam.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Sơ Đồ Tư Duy Tức Nước Vỡ Bờ Ngô Tất Tố 🍀 8 Mẫu Tóm Tắt
Luyện tập viết đoạn văn phân tích nhân vật chị Dậu ngắn gọn sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp.
Chị Dậu là một người yêu thương chồng con tha thiết, đảm đang, hiền dịu và tháo vát nhưng có sức sống mạnh mẽ, có tinh thần phản kháng tiềm tàng. Sau khi a Dậu bị trói và cùm kẹp ở ngoài đình làng, bị bọn người nhà Hào Lí khiêng về. Chị đã nấu cháo, quạt cho nguội cháo rồi đi rón rén, ngồi xem chồng ăn có ngon miệng không.
Qua đó, thể hiện chị Dậu là người phụ nữ đảm đang, dịu dàng và tận tụy hết lòng yêu thương chăm sóc chồng. Anh Dậu vừa được cứu, chưa tỉnh lại, bưng bát cháo được đưa lên miệng chưa kịp húp thì bọn cai lệ và người nhà lý trưởng từ ngoài sầm sập xông vào. Lúc đầu chị đã hết sức lễ phép, nhã nhặn vì chị biết chúng là “người nhà nước” còn chồng chị là kẻ cung đinh có tội. Chị “run run” xin khất rồi vẫn tha thiết van nài.
Đến lúc cai lệ sầm sập đến chỗ anh Dậu định trói, chị xám mặt chạy đến đỡ tay hắn và năn nỉ “cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc ông tha cho”, nhưng đến khi chính mình bị đánh, chị Dậu tức quá không thể chịu được, liều mạng cự lại bằng lí xưng hô ngang hàng, chị đứng lên và nói: “chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”.
Cai lệ tát vào mặt chị rồi hắn cứ nhảy vào chói anh Dậu, chị nghiền hai hàm răng: “mày trói ngay chồng bà đi, mà cho mày xem”. chị đã đứng lên với niềm căm phẫn ngùn ngụt tư thế đứng trên đầu kẻ thù đè bẹp đối phương đấu lực với chúng, bằng tất cả sức mạnh của lòng căm thù tức giận ấy, chị Dậu đã túm lấy cổ tên cai lệ ấn dúi ra cửa, lần lượt, người đàn bà lực điền này đã quật ngã tên cai lệ và người nhà lý trưởng.
Trước những hành động hung bạo, độc ác, đểu cáng của bọn hào lý tham lam hống hách chị Dậu đã vùng dậy đứng lên đấu tranh để bảo vệ mạng sống cho chồng. Chị Dậu mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, tiêu biểu cho tầng lớp phụ nữ nông dân giàu sức sống dưới ách áp bức của chế độ nửa thực dân nửa phong kiến khi chưa bắt gặp ánh sáng Đảng.
Tham khảo trọn bộ 🌹 Cảm Nhận Về Nhân Vật Chị Dậu 🌹 13 Đoạn Văn Cảm Nghĩ Hay
Tác giả Ngô Tất Tố là nhà văn của những người nông dân. Ông là nhà văn xuất sắc, tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán trước cách mạng tháng Tám. Nói đến Tắt đèn là chúng ta nhớ đến nhân vật chị Dậu. Đó là một người phụ nữ nông dân nghèo khổ, cần cù lao động, giàu tình thương yêu chồng con, dũng cảm chống lại cường hào.
Với đoạn trích Tức nước vỡ bờ, ông dã phản ánh lại cảnh thu thuế của xã hội ngày xưa đồng thời qua đó ông muốn lên án, phê phán chế độ thực dân nửa phong kiến bất công vô nhân đạo. Cảnh Tức nước vỡ bờ dã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về nhân vật chị Dậu – một người phụ nữ điển hình biểu tượng cho người phụ nữ Việt Nam.
Hoàn cảnh của chị Dậu thật đáng thương. Chị phải bán chó, bán khoai và đứt ruột bán đứa con bảy tuổi để đủ tiền nộp sưu cho chồng. Tưởng mọi chuyện đã xong và anh Dậu được về nhà nhưng bọn chúng lại còn bắt chị nộp thêm tiền sưu cho chú em chồng đã chết.
Nộp một suất đã làm cho chị khổ lắm rồi nay nộp thêm suất nữa thì chị lấy đâu ra khoai, lấy đâu ra chó, lấy đâu ra con để bán mà nộp bây giờ? Anh Dậu bị ốm, bị trói suốt ngày đêm, anh ngất xỉu như cái xác chết. Bọn cường hào cho người vác anh Dậu về trả lại cho chị Dậu. Đau khổ, tai họa chồng chất, đè nặng lên người chị làm cho chị khốn đốn vô cùng.
Cuộc đời là vậy, chị làm chăm chỉ, cần cù lao động quần quật nhưng chị vẫn nghèo, vẫn khổ, vẫn đói. Thế nhưng chị Dậu là một người vợ, một người mẹ giàu tình thương yêu chồng con. Khi anh Dậu được trả về với cái xác không hồn chị đã tìm mọi cách cứu chữa cho chồng. Hàng xóm kéo đến an ủi, người cho vay gạo nấu cháo… Tiếng trống, tiếng tù và đã nổi lên.
Chị Dậu cất tiếng khẩn khoản, tha thiết mời chồng: Thầy em cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xốt ruột. Lời người dàn bà nhà quê mời chồng ăn lúc hoạn nạn chứa đựng biết bao tình thương yêu, an ủi, vỗ về. Cái cử chỉ của chị Dậu bế cái Tỉu cố ý chờ xem chồng ăn cổ ngon miệng hay Không đã biểu lộ sự săn sóc và yêu thương của người vợ vởi người chồng đang đau ốm, tính mạng đang bị bọn cường hào de dọa.
Chị Dậu là một người phụ nữ cứng cỏi, dũng cảm, có tinh thần phản kháng chống cường quyền mặnh liệt. Bọn cai lệ và tên hầu cận lý trưởng với tay thước, tay roi, dây thừng lại sầm sập xông vào nhà chị Dậu thét trói kẻ thiếu sưu. Anh Dậu vừa run rẩy kề miệng vào bát cháo, nghe tiếng thét của tên cai lệ anh đã lăn đùng xuống phản.
Tên cai lệ gọi anh Dậu là thằng kia, hắn trợn ngược hai mát quát chị Dậu: Mày định nói cho chú mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà cũng mở mồm xin khất. Chị Dậu đã hạ mình van xin, lúc thì run run, xin khất, lức thì thiết tha xin ông trông lại.
Chị Dậu càng van xin thì bọn chúng càng hung hăng, dữ tợn hơn. Tên cai lệ đùng đùng… giật phát cái dây thừng trong tay anh hầu cận lý trưởng, hắn chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu để bắt trói điệu ra đình chị Dậu van xin hắn tha cho… thì hắn bịch luôn vào ngực chị mấy bịch, tát đánh bốp vào mặt chị rồi nhảy vào cạnh anh Dậu.
Trước thái độ của bọn cường hào, mọi sự nhẫn nhục đều có giới hạn. Để bảo vệ tính mạng cho chồng và nhân phẩm của bản thân, chị Dậu đã kiên quyết chống cự chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ. Không chịu lui bước, chị Dậu nghiến hai hàm răng như thách thức: mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem.
Tư thế của chị Dậu có một bước nhảy vọt. Từ chỗ nhún mình tự gọi là cháu xưng ông, sau đó lại là tôi với ồng cuối cùng là bày chồng bà với mày. Chị Dậu đã phản kháng. Tên cai lệ bị chị túm lấy cổ, ấn dúi ra cửa làm cho bọn chúng ngã chỏng quèo. Tên hầu cận lý trưởng bị chị túm tóc lẳng cho một cái ngã nhào ra thềm. Với chị nhà tù thực dân chẳng làm cho chị run sợ. Ngô Tất Tố đã hả hê khi tả cảnh chị Dậu cho tên cai lệ và tên hầu cận lý trưởng một bài học đích đáng, ông đã chỉ ra một quy luật tất yếu trong xã hội có áp bức, có đấu tranh.
Ngô Tất Tố đã miêu tả một cách rất chân thực, đã xây dựng một đoạn văn như một màn kịch vừa có bi vừa có hài. Cách sử dụng ngôn ngữ đối thoại nhuần nhuyễn, hợp lý, sử dụng lời ăn tiếng nói rất bình dị của đời sống hàng ngày. Mỗi nhân vật đều có ngôn ngữ riêng để thể hiện tính cách của mình. Ông đã thành công trong việc khắc họa nhân vật điển hình : chị Dậu – một người phụ nữ cần cù, chịu khó và có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, mang những vẻ đẹp của người phụ nữ nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Khám phá thêm 💕 Suy Nghĩ Của Em Về Nhân Vật Chị Dậu Qua Đoạn Trích Tức Nước Vỡ Bờ 💕 15 Mẫu Hay
Đoạn văn “Tức nước vỡ bờ” (trích tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố) là những áng văn xuôi thể hiện rõ nhất hiện thực sinh động của xã hội phong kiến đương thời và số phận của những người nông dân cùng cực. Chị Dậu là một người cũng là đại diện cho nhiều người nông dân Việt Nam trong hoàn cảnh đó, xã hội thối nát, tàn ác và bất nhân đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng, khiến họ phải liều mạng chống lại để giành giật lại sự sống, miếng cơm, manh áo.
Gia đình chị Dậu, một gia đình “nhất nhì trong hạng cùng đinh”, dù cho đã bán hết những thứ có thể bán, bán từ những củ khoai – đồ ăn thay cơm của gia đình, bán cả đàn chó mẹ chó con vừa mới đẻ, đến nỗi phải bán cả đứa con gái đầu lòng cho nhà Nghị Quế nhưng chị Dậu vẫn phải chạy vạy ngược xuôi để có đủ tiền đóng sưu thuế cho chồng và cả người chú đã chết lâu năm, sưu cho người sống đã nặng gánh nay còn phải sưu cho người đã chết.
Không khí ngột ngạt của một làng quê nghèo trong những ngày sưu thuế thực khiến người ta không thở nổi, hoàn cảnh như anh chị Dậu đã đi đến bước đường cùng, không còn xoay sở được nữa, anh Dậu thì đang ốm cũng bị lôi đi đánh trói, còn chị Dậu chỉ biết kêu gào trong uất ức.
Dù trong hoàn cảnh cùng quẫn ấy tình cảm vợ chồng vẫn luôn sát cánh bên nhau, chị Dậu rất mực thương yêu chồng, khi anh Dậu được trả từ đình về nhìn anh mà chị xót hết ruột gan, xin ít gạo nấu cháo rồi ngồi quạt cho cháo chóng nguội, rồi lại giục chồng ăn kẻo người ta lại đến thúc sưu chẳng có sức mà chịu.
Chị Dậu chỉ lo cho chồng con còn bản thân chị chẳng màng đến, trong hoàn cảnh ấy chị hiểu rằng mình phải thay chồng gánh vác lo toan mọi việc, phải cáng náng đứng lên làm trụ cột trong gia đình, phải là chỗ dựa cho chồng cho con.
Chẳng thế mà chị Dậu đã phải liên tục thay đổi tâm thế của mình khi nói chuyện với cai lệ và người nhà lí trưởng, chị phải làm mọi thứ để bảo vệ chồng và con chị. Khi bọn cai lệ tới nhà, thoạt đầu chị Dậu sợ hãi, run run, chỉ lo bọn nó lại đánh chồng chị, rồi chị hạ giọng van xin tha thiết “Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!”.
Những lời van xin của chị Dậu không có tác dụng, chị còn bị đánh, thế nhưng khi chúng tới trói anh Dậu, chị đã quyết định không nhịn, không nhún nhường chúng nó nữa, chị đứng phắt dậy, không một chút run sợ chị liều mạng cự lại “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ !”, chị không chỉ nói suông, khi bọn cai lệ sấn vào anh Dậu chị liền thẳng tay xông vào túm cổ tên cai lệ, ấn dúi hắn ra cửa.
Sức khỏe của người đàn bà lực điền như chị đã xô ngã chỏng quèo tên cai lệ nghiện ngập, đến người nhà lí trưởng cũng không làm gì được chị. Chẳng cần no cơm no cháo, sức mạnh của tình thương đã làm trỗi dậy sức mạnh tiềm tàng trong chị Dậu, dự quật cường của chị khiến cho bọn tay sai khiếp sợ, đến anh Dậu cũng lo lắng sợ phải tội.
Nhưng chị Dậu đã xác định rõ “Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được”, quả thực là tức nước thì vỡ bờ, sức chịu đựng của con người là có giới hạn, sức mạnh của tình yêu thương và lòng căm phẫn đã biến một chị Dậu hiền dịu, nhẫn nhục trở nên ngang tàng, chí khí và sức sống mạnh mẽ.
Hành động quật cường dám chống lại của chị Dậu thể hiện sự bế tắc, cùng quẫn đến đường cùng của tất thảy những người nông dân nghèo trong xã hội bấy giờ. Chị chống lại cũng là để tự vệ, bảo vệ cho cuộc sống, tính mạng của chồng và cả những đứa con của chị, chính bọn quan tham, lí trưởng trong chế độ đó đã ép chị Dậu không thể nhịn nhục được thêm nữa.
Ngòi bút hiện thực sinh động của Ngô Tất Tố trong đoạn văn “Tức nước vỡ bờ” không chỉ vạch trần bộ mặt xấu xa, thối nát của xã hội thực dân phong kiến đương thời mà còn làm nổi bật lên hình ảnh những người nông dân như chị Dậu, một người phụ nữ vừa có vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn lại vừa có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Những người nông dân gặp nhiều đau khổ, bất hạnh nhưng vẫn vươn lên trong cuộc sống, giữ trọn những phẩm chất tốt đẹp, là hình ảnh ta dễ dàng nhận thấy trong những tác phẩm văn học giai đoạn trước cách mạng tháng Tám.
Và khi đọc những tác phẩm ấy, người đọc chắc chắn không thể nào quên hình ảnh người phụ nữ nghèo khổ, sống trong cảnh khốn cùng nhưng vẫn hết lòng yêu thương chồng con và có một sức mạnh tiềm tàng mạnh mẽ. Người phụ nữ đó chính là chị Dậu trong Tắt đèn, hay rõ nét hơn ở tính cách của chị là trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ.
Nhân vật chị Dậu có hoàn cảnh rất đáng thương. Nhà nghèo, lại nợ tiền sưu thuế, chị phải bán gánh khoai, ổ chó mới sinh và cả đứa con gái mới lên bảy tuổi cho vợ chồng Nghị Quế để có tiền nộp sưu thuế cho chồng. Vậy mà vẫn không xong, anh Dậu chồng chị vẫn bị bắt trói, đánh đập ở ngoài sân đình, vì còn thiếu suất sưu của chú em chồng đã mất từ năm ngoái.
Đã chết cũng không được trốn sưu nhà nước nên vợ chồng chị Dậu vẫn phải nộp suất sưu ấy. Anh Dậu đã sẵn bệnh tật ốm đau, lại thêm bị trói cả ngày đêm ở sân đình nên người lả đi tưởng chết. Bọn tay chân cường hào thấy vậy, liền vác anh trở về nhà trả cho chị Dậu.
Chị Dậu là một người vợ, người mẹ giàu tình yêu thương. Nhìn chồng như vậy, chị Dậu đau đớn không kìm được nước mắt. Chị tìm mọi cách để cứu chồng qua cơn nguy kịch. Chị thiết tha xin chồng húp tạm hớp cháo cho đỡ xót ruột. Bát cháo như chứa đựng biết bao tình yêu thương của chị dành cho chồng.
Chị bế cái Tỉu ngồi cạnh chồng, nhìn xem chồng có ăn ngon miệng không, khiến cho ta thấy rõ được tình yêu, sự chăm sóc hết mực của chị khi chồng đang đau ốm, đứng trước cơn nguy kịch đến tính mạng. Không chỉ thế, chị còn là một người cứng cỏi, dũng cảm, dám đứng lên chống lại bọn cường hào để bảo vệ cho người chồng mà chị thương yêu.
Bọn cai lệ, tay chân của lý trưởng sầm sập xông đến, tay roi tay thước thét trói đánh anh Dậu. Anh Dậu chưa kịp húp nổi miếng cháo, đã bị tiếng thét của chúng làm cho sợ ngã lăn đùng ra phản. Chúng chửi bới anh Dậu không ra gì, rồi trợn ngược mắt quát chị Dậu. Chị Dậu van xin hắn, xin khất nợ, xin chúng xem xét lại…
Nhưng không, hắn lại càng lồng lộn lên, chạy đến chỗ anh Dậu để bắt trói ra đình. Thấy chị Dậu van xin, hắn bịch luôn vào ngực chị, rồi tát đánh bốp vào mặt chị. Hắn lao đến cạnh anh Dậu, định bắt trói anh. Đến lúc này chị không thể chịu được nữa, điều gì cũng có giới hạn. Để bảo vệ cho chồng, chị đã dũng cảm chống cự lại. Chị nghiến hai hàm răng thách thức chúng:
– Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!
Chị Dậu đã thay đổi thái độ một cách không thể ngờ. Đang hạ mình van xin, sợ sệt chúng, giờ chị đã vỗ ngực tự tin đe dọa lại chúng. Thậm chí, chị còn thẳng tay trừng trị hai tên cai lệ định xông tới trói chồng chị. Những kẻ hút nhiều sái cũ làm sao có đủ sức mạnh để chống lại người đàn bà lực điền quanh năm lam lũ. Chúng bị chị túm cổ, ấn dúi ra cửa, một tên bị chị túm tóc lẳng cho một cái ngã nhào ra ngoài thềm.
Chị chẳng còn gì để mà sợ nữa, thà ngồi tù, còn hơn để chúng làm tình làm tội. Chị đã cố gắng nhịn nhục, nhưng vì chúng càng được đà lấn tới, áp bức, bóc lột dã man, đe dọa tính mạng của chồng chị, nên chị đã dũng cảm vùng lên để chống trả lại chúng. Đúng như câu “Con giun xéo mãi cũng quằn”, trong hoàn cảnh áp bức, con người sẽ phải vùng lên để đấu tranh.
Thật vậy, chị Dậu trong “Tức nước vỡ bờ” được Nguyễn Tuân miêu tả rất sống động và chân thực. Người phụ nữ giàu tình yêu thương dành cho gia đình, chồng con, giàu đức hy sinh. Và trong bất cứ hoàn cảnh nào, chị cũng sẵn sàng đứng lên đấu tranh vì gia đình, vì người thân yêu của chị. Chị là một điển hình của tấm gương những người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa.
Có thể bạn sẽ thích 🌟 Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Nhân Vật Chị Dậu 🌟 15 Bài Văn Hay
Giai đoạn 1930 – 1945, trào lưu văn học hiện thực phê phán nổi lên, là một nhà văn tiêu biểu trong thời điểm bấy giờ, Ngô Tất Tố cũng không nằm ngoài guồng quay của trào lưu đó. Ông cho ra đời tác phẩm “Tắt đèn” như muốn gửi gắm tới người đọc “bộ mặt thật” của xã hội lúc này.
Tác phẩm xoay quanh câu chuyện về chị Dậu – một người phụ nữ bị áp bức, bóc lột quá nhiều, thế nhưng, đằng sau sự nhẫn nhịn chịu đựng của người phụ nữ mỏng manh đó chính là tinh thần phản kháng vô cùng mạnh mẽ. Một trong những đoạn trích thể hiện rõ tinh thần ấy là “Tức nước vỡ bờ”.
Đón chồng trở về nhà sau bao ngày bị bọn quan sai lôi đi đánh đập, hành hạ, chị Dậu thậm chí còn không có nổi một hạt gạo để nấu cho chồng bát cháo, được người hàng xóm cho vay ít gạo, chị vội vã đưa lên nấu, cháo chín, chị cẩn thận ngồi thổi cho nguội rồi mới nhẹ nhàng nâng chồng dậy ngồi ăn. Giữa những lúc khó khăn, đói khổ vây quanh, người phụ nữ chịu trăm nghìn nỗi thống khổ ấy vẫn yêu thương, chăm sóc chồng hết mực.
Trước đó, vì không có tiền nộp sưu nên chồng chị bí trói và lôi đi. Một mình chị thân gái chạy vạy khắp nơi để vay tiền mà không đủ tiền để “chuộc” chồng ra. Túng quẫn, ngay cả đàn chó trong nhà còn chưa mở mắt chị cũng phải mang đi bán. Và người mẹ khốn khổ đó phải chịu cảnh đau đớn đến cùng cực khi dằn lòng mình dẫn đứa con gái đầu lòng ngoan hiền mang đi bán.
Ruột đau như cắt khi nghe con van xin “U đừng bán con” nhưng chị vẫn buộc lòng phải làm vậy bởi chỉ còn cách này mới có thể cứu được chồng chị ra. Đắng cay thay, ngay sau khi phải hy sinh quá nhiều thứ quý giá mới có thể đánh đổi được tự do cho chồng thì lại một lần nữa, bọn tay sai đi thúc thế đã đến “quấy nhiễu” nhà chị.
Chúng bắt chị phải nộp khoản thuế thân cho người em chồng đã mất cách đây mấy năm. Một bên thì chồng ốm đau thoi thóp, bên kia thì bọn tay sai thúc giục đòi tiền, người phụ nữ bé nhỏ như đang chơ vơ giữa biển đời chấp chới.
“Con giun xéo lắm cũng quằn”, ban đầu khi thấy chúng đến chị nhẫn nhịn van xin, năn nỉ, thế nhưng chúng vẫn nhất quyết không tha. Cho tới khi chị thấy tên cai lệ định lôi anh Dậu đi thì lúc này sự tức giận trong con người chị mới trào dâng lên tới đỉnh điểm. Chị không muốn nhún nhường nữa, không muốn phải chịu cảnh “thấp cổ bé họng” phải nhất nhất nghe theo mọi yêu cầu của lũ quan lại xấu xa. Chị “găng” lên với giọng điệu đanh thép: “Chồng tôi đang ốm, ông không được phép hành hạ.
Mặc cho phản ứng dữ dội của chị, bọn tay sai vẫn tiến tới định đánh anh Dậu, “tức nước vỡ bờ”, chị chỉ thẳng tay vào mặt chúng với một lời thách thức: “Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Không dừng lại ở lời nói, chị đánh lại chúng. Người phụ nữ khốn khổ ấy không còn yếu đuối, sợ hãi như ngày xưa mà thay vào đó, giới hạn của sự chịu đựng đã khiến chị trở nên mạnh mẽ, không một tên tay sai nào có thể đánh lại được, chúng đành lủi thủi bỏ đi.
Ngô Tất Tố đã rất tài tình khi lồng ghép những biến chuyển tâm lý vào trong một nhân vật chỉ trong một đoạn ngắn. Đó không chỉ là những biến chuyển bình thường mà còn là sự hỗn đoạn nội tâm của một người phụ nữ phải trải qua quá nhiều biến cố. Tiếc rằng ý thức đấu tranh đó chỉ đến bột phát chứ không có sự định hướng nào cả, thế nên nó sớm lụi tàn như chính cuộc đời chị phải vùng chạy và lao vào màn đêm đen tối.
Có thể nói, “Tức nước vỡ bờ” chính là đoạn trích đặc sắc nhất trong tác phẩm “Tắt đèn”. Nó không chỉ lột tả được hình ảnh người phụ nữ kiên trung, hiền hậu, yêu chồng, thương con mà còn khiến người đọc hiểu hơn về một xã hội phong kiến thối nát lúc bấy giờ.
Tiếp tục tham khảo 💕 Cảm Nhận Về Đoạn Trích Tức Nước Vỡ Bờ 💕 15 Bài Văn Hay
Văn học hiện thực là nơi phản ánh chân thực nhất những lát cắt đầy phức tạp, đau thương của đời sống xã hội. Văn học Việt Nam trước năm 1945 đã tập trung tái hiện tình cảnh đáng thương, thống khổ đến cùng cực của người nông dân trong xã hội phong kiến.
Một trong những tác phẩm hiện thực có giá trị tố cáo mạnh mẽ nhất là “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, đặc biệt đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” chúng ta không chỉ thấy được sự bạo tàn của bọn cường hào, quan lại, nỗi khổ cực, thê thảm của người nông dân mà qua nhân vật chị Dậu mà còn thấy được sức sống, sức phản kháng mạnh mẽ bên trong những con người cùng khổ đáng thương ấy.
Chị Dậu vốn có hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Là hộ cùng đinh trong làng, đến mùa nộp sưu thuế, gia đình chị Dậu cùng bao gia đình khốn khó khác trong làng phải chạy vạy đến đáng thương mà vẫn không đủ tiền nộp cho bọn tham quan vô nhân tính. Đóng sưu cho chồng chưa xong, chúng còn bắt đóng sưu cho cả người em chồng của chị vừa mất, còn đau đớn nào hơn, tội ác thật ghê tởm của lũ người man rợ kia.
Sưu người sống đã đành, đến người chết rồi cũng phải đóng sưu, để có tiền đóng sưu cho chồng và cả người em chồng đã mất, chúng khiến chị phải bán cả cả đàn chó, cả cái Tí con mình mà vẫn không đủ. Chao ôi, tình cảnh thật thương tâm, lũ sống không tình người kia sao có thể mạt hạng đến thế, một lũ giết người tàn ác, đày đoạ những người khốn khổ đến tột cùng.
Trước những áp bức bất công, bạo tàn chị Dậu vẫn mạnh mẽ cáng đáng, lo toan, làm trụ cột cho cả gia đình trước cơn bão tố. Trước hết, chị Dậu hiện với với vẻ đẹp của một người phụ nữ thủy chung, đảm đang mà giàu tình yêu thương, lo lắng cho chồng, cho con. Anh Dậu được thả về sau trận đòn roi khủng khiếp, những tưởng chết đi rồi, chị Dậu lo lắng vô cùng. Được cụ bà hàng xóm thương tình cho bát gạo nấu cháo cho chồng húp tạm, chị nhanh chóng nấu cho cả nhà ăn.
Chờ cháo nguội, chị múc cho con một bát rồi mang đến chỗ chồng, dùng lời lẽ thật dịu dàng, ân cần để động viên chồng ăn đỡ lót dạ: “Thầy em hãy cố ngồi dậy húp hít cháo cho đỡ xót ruột”.
Chị lo lắng nhìn chồng ăn, vừa cố trấn an để chồng ăn ngon miệng vừa để ý xem tụi thu thuế có tới liền hay không. Dù trong lúc gay go nhất chị vẫn muốn dành chút thời gian cho chồng ăn, nán lại xem chồng ăn có ngon miệng hay không, hình ảnh chị Dậu hiện lên thật tình cảm, chu đáo và giàu đức hy sinh. Một người vợ hết mực yêu thương, chăm sóc và lo lắng cho chồng mình.
Khi chưa kịp húp hết bát cháo thì bè lũ cai lệ ập tới hòng bắt anh Dậu đi. Chị Dậu lo lắng cho sự an nguy của chồng, nhất là khi đang đau ốm này, chị cố gắng dùng lời lẽ khẩn thiết, van xin để mong chúng thương tình mà tha cho chồng chị. Những lời xót xa cất lên nghe sao mà thảm thiết thê lương đến nghẹn lòng. Đó là những ân tình sâu nặng thể hiện tấm lòng thiết tha của một người vợ dành cho chồng, một tình thân đẹp đẽ và tình yêu thương giữa con người với con người.
Điều đó đối lập hoàn toàn với sự bạo ngược, ngang tàng của bè lũ cai lệ, lý trưởng vô nhân tính kia. Trước bao lời van xin khẩn thiết cùng tình cảnh tội nghiệp đáng thương, bọn cai lệ không mảy may màng đến lời chị. Chúng thẳng tay đàn áp anh Dậu, trong tình thế ấy, chị Dậu đã đứng lên phản kháng đầy mạnh mẽ và quyết liệt để bảo vệ người chồng đang đau ốm của mình.
Trước cường quyền, bạo lực, trước những áp bức chị không hề tỏ ra sợ hãi hay nao núng mà trái lại vô cùng mạnh mẽ, kiên cường, quyết tâm. Những lời văn xin chân thành bị cự tuyệt, chị đưa ra những lí lẽ thấu đáo, hợp tình: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”.
Thật vậy, người bình thường cũng không ai có quyền được xâm phạm thân thể, hơn nữa lúc này này anh Dậu còn đau ốm không được chăm sóc đã đành, là người vợ , chị không thể làm ngơ được. Cách xưng hô từ “ông- con” sang “tôi -ông” đã cho thấy được sự kiên quyết trong lời lẽ, lúc này đây không phải là cuộc trò chuyện của kẻ dưới người trên mà là cuộc đấu giữ hai kẻ ngang hàng, không nhượng bộ. Anh Dậu bây giờ chính là mối bận tâm duy nhất trong chị, chẳng một thế lực hay ai khác có thể khiến chị phân tâm mà nhẫn nhịn.
Bởi càng nhịn chúng càng lấn tới, càng áp bức. Khi chúng vẫn ngang nhiên hành hạ, chị nghiến chặt hai hàm răng của mình mà nói: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. Sự căm phẫn lên đến tận cùng, nỗi uất hận lên đến đỉnh điểm khi chị dùng súc của người đàn bà lực điền khiến tên cai lệ ngã chổng khoèo. Bao nỗi cảm tức dồn hết vào hành động này.
Một sức sống mạnh mẽ bấy lâu tiềm tàng đang trỗi dậy trong chị. Nhún nhường bị đàn áp, chị phản kháng quyết liệt, vượt lên những thứ phép tắc quy cũ tầm thường để bảo vệ người thân, hơn hết là bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải, lên án cường quyền. Một hành động bộc phát nhưng thể hiện được vẻ đẹp trong tính cách của người phụ nữ, một người nông dân chân lấm tay bùn, thật thà lương thiện nhưng khi bị áp bức, khi chịu quá nhiều oan ức, bất công họ sẽ trỗi dậy, tranh đấu để bảo vệ quyền lợi chính mình.
Hình ảnh chị Dậu hiện lên thật đẹp đẽ và đáng trân trọng, tiêu biểu cho vẻ đẹp của những người nông dân. Qua hình ảnh ấy, ta càng thấy được bộ mặt tàn bạo, giả nhân giả nghĩa của bọn thực dân phong kiến xưa, lấy bạo lực và lý lẽ bạo ngược để tồn tại đồng thời là tiếng nói thương cảm cho những số phận nghèo khổ, ca ngợi vẻ đẹp của những người phụ nữ giàu tình yêu thương.
Đón đọc tuyển tập 🍀 Phân Tích Tức Nước Vỡ Bờ 🍀 13 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Trào lưu hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945 đã có những đóng góp đáng kể cho nền văn học nước nhà. Chúng ta khó có thể quên các tên tuổi lớn như Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… và đặc biệt là Ngô Tất Tố – tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Tắt đèn.
Lần đầu tiên, ông đã đưa vào văn học hình ảnh một người phụ nữ nông dân Việt Nam với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp. Đoạn văn Tức nước vỡ bờ thể hiện chân thực và sinh động vẻ đẹp của nhân vật chị Dậu, một phụ nữ yêu chồng, thương con, giàu đức hi sinh và có tinh thần phản kháng mãnh liệt.
Mở đầu đoạn trích là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa bị bọn cường hào đánh đập thừa chết thiếu sống chỉ vì chưa có tiền nộp sưu. Chị Dậu đã cố sức xoay xỏa để cứu chồng ra khỏi cảnh bị cùm trói và hành hạ dã man. Chị tất tả chạy ngược chạy xuôi, vay được nắm gạo nấu nồi cháo loãng.
Cảm động thay là cảnh chị Dậu múc cháo ra mấy cái bát cũ kĩ, sứt mẻ và quạt lia quạt lịa cho cháo mau nguội rồi ân cần mời mọc: Thầy em cố dậy húp tí cháo cho đỡ xót ruột. Trong ánh mắt người vợ nghèo khổ ấy toát lên một tình thương yêu chồng tha thiết.
Trong cơn quẫn bách của mùa sưu thuế, chị Dậu đã trở thành trụ cột của cái gia đình khốn khổ. Chồng bị bắt, bị gông cùm, đánh đập, một tay chị chèo chống, chạy vạy, phải bán tất cả những gì có thể bán được, kể cả đứa con gái đầu lòng ngoan ngoãn, hiếu thảo mà chị thương đứt ruột để lấy tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi vòng tù tội.
Chị đã phải đổ bao mồ hôi nước mắt để anh Dậu được trả tự do trong tình trạng tưởng như chỉ còn là một cái xác không hồn. Chính tình yêu thương, lo lắng cho chồng đã dẫn chị đến hành động chống trả quyết liệt lũ tay sai tàn ác khi chúng nhẫn tâm bắt trói anh Dậu một lần nữa.
Hành động của chị Dậu không phải diễn ra một cách bất ngờ mà cái mầm mống phản kháng đã ẩn chứa từ lâu dưới vẻ ngoài cam chịu, nhẫn nhục. Sự chịu đựng kéo dài và sự áp bức tột độ đã khiến nó bùng lên dữ dội.
Lúc bọn đầu trâu mặt ngựa ập vào định lôi anh Dậu đi nhưng chưa hành hung mà chỉ chửi bới, mỉa mai thì chị Dậu tuy giận nhưng vẫn nhẫn nhục van xin tên cai lệ độc ác: Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!
Cách xưng hô của chị là cách xưng hô của kẻ dưới với người trên, biểu hiện sự nhún mình. Lúc bọn chúng sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu, định trói anh một lần nữa, chị Dậu đã xám mặt nhưng vẫn cố chịu đựng, níu tay tên cai lệ, năn nỉ: Cháu xin ông. Những lời nói và hành động ấy của chị chỉ nhằm mục đích bảo vệ chồng.
Đến khi giới hạn của sự chịu đựng bị phá vỡ thì tính cách, phẩm chất của chị Dậu mới bộc lộ đầy đủ. Tên cai lệ không thèm nghe chị. Hắn đấm vào ngực chị và cứ sấn đến trói anh Dậu. Chị Dậu đã chống cự lại. Sự bùng nổ tính cách của chị Dậu là kết quả tất yếu của cả một quá trình chịu đựng lâu dài trước áp lực của sự tàn ác, bất công. Nó đúng với quy luật: Có áp bức, có đấu tranh. Người đọc xót thương một chị Dậu phải hạ mình van xin bao nhiêu thì càng đồng tình, nể phục một chị Dậu đáo để, quyết liệt bấy nhiêu.
Từ vị thế của kẻ dưới: Cháu van ông…, chị Dậu thoắt nâng mình lên ngang hàng với kẻ xưa nay vẫn đè đầu cười cổ mình: Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ. Câu nói cứng rắn mà vẫn có đủ tình, đủ lí. Nhưng cái ác thường không biết chùn tay. Tên cai lệ cứ sấn tới đánh chị và nhảy vào định lôi anh Dậu.
Tức thì, sau lời cảnh cáo đanh thép của kẻ trên đối với kẻ dưới: Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem! là hành động phản kháng dữ dội: Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng queo trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc, lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.
Tình yêu chồng, thương con cộng với tinh thần phản kháng âm ỉ bấy lâu đã thổi bùng lên ngọn lửa căm thù trong lòng chị Dậu – người đàn bà hiền lương, chất phác. Nỗi sợ cố hữu của kẻ bị áp bức phút chốc tiêu tan, chỉ còn lại nhân cách cứng cỏi của một con người chân chính: Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được.
Tuy vậy, hành động phản kháng của chị Dậu hoàn toàn mang tính manh động, tự phát. Đó mới chỉ là cái thế tức nước vỡ bờ của một cá nhân mà chưa phải là cái thế của một giai cấp, một dân tộc vùng lên phá tan xiềng xích áp bức bất công. Có áp bức, có đấu tranh, áp bức càng nhiều thì đấu tranh càng quyết liệt và hành động của chị Dậu đã chứng minh cho chân lí ấy.
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ là một trong những đoạn hay của tác phẩm Tắt đèn. Nhà văn Ngô Tất Tố đã dành cho nhân vật chính là chị Dậu tình cảm yêu thương, thông cảm và trân trọng. Những tình tiết sinh động và đầy kịch tính trong đoạn trích đã góp phần hoàn thiện tính cách người phụ nữ nông dân đẹp người, đẹp nết.
Gợi ý cho bạn 💧 Phân Tích Nhân Vật Cai Lệ Trong Tức Nước Vỡ Bờ 💧 9 Mẫu Đặc Sắc
Ngô Tất Tố là nhà văn bậc thầy trong trào lưu văn học hiện thực những năm mà đất nước còn gian khó, nhân dân bị đọa đầy. Trong hoàn cảnh ấy, tác giả lấy bối cảnh từ một vụ thu sưu thuế ở làng quê để qua đó phản ánh số phận khổ đau của những người nông dân trong xã hội đương thời đồng thời tố cáo giai cấp thống trị. Đặc biệt qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ, mâu thuẫn của giai cấp khác nhau đã tạo ra sự thu hút với người đọc, khiến họ thương cảm cho chị Dậu và dấy lên sự tức tối, lòng thù hận với giai cấp thống trị.
Trong đoạn trích, Ngô Tất Tố thành công trong việc xây dựng hình tượng người phụ nữ trong xã hội đương thời thông qua nhân vật chị Dậu. Và ông rất sắc sảo khi gây dựng những tình tiết trong truyện xoay quanh nhân vật chị Dậu, đã làm sáng lên phẩm chất của người nông dân dù bị đọa đầy.
Việc thu sưu thuế vẫn diễn ra gay gắt, bọn tay sai của các quan trên, lí trưởng cứ thế lộng hành, nhà chị Dậu thì ngày càng khó khăn. Chị phải bán khoai, bán chó, bán cả đứa con gái lớn cho nhà lí trưởng để nộp nốt sưu cho chồng của mình.
Anh Dậu ngày càng đau ốm, sau trận đánh trói ấy, anh càng yếu dần, nếu bị chúng đánh trói nữa tưởng rằng sẽ chết mất. Và chị Dậu đang tìm mọi cách để bảo vệ chồng của mình. Đoạn trích nổi bật với cảnh cai lệ và chị Dậu đối đầu khi tên tay sai đến thúc sưu nhà chị rất gay cấn và đúng như nhan đề “tức nước vỡ bờ”.
Chị Dậu là một người phụ nữ yêu thương chồng hết mực, chị chăm sóc chồng đang ốm vì vừa bị bọn cường hào lí trưởng đánh đập. Chị cũng thương con mình sâu sắc. Chị tất tả chạy ngược xuôi vay được vài nắm gạo và nấu bát cháo loãng cho chồng ăn lại sức. Từ cách chị chăm chồng, đỡ chồng dậy và cách xưng hô: “Thầy em cố dậy húp tí cháo cho đỡ xót ruột” đã thể hiện sự dịu dàng vốn có trong mỗi người phụ nữ Việt Nam ngày trước.
Chị trở thành trụ cột trong gia đình, gánh chịu mọi đau khổ, sự túng quẫn vì sưu thuế. Chị đổ mồ hôi sôi nước mắt để cứu anh Dậu. Chăm sóc anh nhưng lúc ấy bất ngờ tên tay sai của lí trưởng và cai lệ xông vào, trên tay là roi, thước và dây thừng, hò hét bắt anh chị phải nộp sưu thuế, Anh Dậu quá khiếp đảm đến nỗi suýt ngất, chỉ còn mình chị Dậu chạy vạy, đối phó với giai cấp thống trị.
Thoạt đầu, chúng định lôi anh Dậu đi nhưng không hành hung mà chúng lại chửi bới mỉa mai đến nỗi chị Dậu vẫn van xin “cháu xin ông” để khất hạn nộp sưu nhưng rồi chúng sấn đến đánh chị thì đã chạm đến giới hạn cuối cùng, tính cách của “người đàn bà lực điền” ấy mới bộc lộ một cách mạnh mẽ và cứng cỏi hơn. Vậy nên người ta mới nói có áp bức bất công thì ắt hẳn có sự đấu tranh.
Chị Dậu đang đứng lên để bảo vệ gia đình và cuộc sống của mình. Chị liều mạng chống cự lại những cú đấm thô bạo bằng những lí lẽ sắc bén: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!”. Không còn xưng hô tôn trọng với những kẻ độc ác và bạo tàn, chị quên đi vị thế của mình chỉ là những người nông dân thấp hèn, chị đứng lên ngang hàng với những kẻ bạo tàn để đấu tranh.
Với tình yêu thương của một người vợ, chị đã chống trả lại bọn chúng. Hai hàm răng nghiến chặt: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!” đầy thách thức và đe dọa. Điều đó thể hiện thái độ căm giận lũ chó đểu, khinh bỉ đến cao độ, đồng thời khẳng định tư thế sẵn sàng chiến đấu của chị, không thèm đấu lí nữa mà thẳng tay trừng trị chúng.
Một hành động phản kháng rất mạnh mẽ, chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi đầu ra cửa “Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng hung hăng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc; lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm”. Cách miêu tả rất độc đáo của Ngô Tất Tố đã khiến cuộc đối đầu của chị và tên cai lệ trở nên sinh động, trong xã hội bất công ấy, một cuộc chiến công lí diễn ra để trừng trị kẻ ác đáng làm người ta khâm phục.
Có lẽ vì người nông dân đặc biệt là người phụ nữ họ đã phải chịu nhiều bất công nên khi bị dồn đến đường cùng, họ phản kháng với mục đích tự vệ chính đáng. Tuy vậy, hành động của chị Dậu chỉ là một cá nhân chứ chưa phải là cả xã hội cùng đấu tranh để giải phóng giai cấp. Có lẽ theo quy luật, càng nhiều áp bức thì sẽ càng xuất hiện đấu tranh.
Nhân vật cai lệ là nhân vật tiêu biểu cho lũ tay sai, công cụ đàn áp đắc lực của giai cấp thống trị. Hắn là một tên nghiện ngập, để xác định vai trò của mình trong việc đi thúc sưu thuế, hắn đánh người, trói người vô tội vạ. Trong xã hội ấy, cai lệ chỉ là tay sai, là tên đứng ra hành hạ người dân nghèo thay lũ quan lại tham lam và độc ác.
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ là một đoạn văn giàu ý nghĩa hiện thực. Ngô Tất Tố xây dựng nhân vật chị Dậu là một người phụ nữ dịu dàng nhưng cũng quyết đoán, thương yêu chồng con nhưng cũng đầy đủ sức mạnh để chiến đấu. Qua đoạn trích, ta thấy nhà văn đã dành tình yêu thương và sự đồng cảm sâu sắc cho chị Dậu cùng với đó lên án xã hội bất công và tàn ác.
Đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Trong Lòng Mẹ 🔥 16 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Viết về đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, chúng ta nhớ đến một anh Phan dám vùng lên đấu tranh chống lại bọn cường hòa ác bá trong “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, nhớ đến một lão Hạc khốn khổ, có số phận vô cùng bất hạnh nhưng luôn giữ được nhân cách lương thiện của mình trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Hay đó là một anh Chí ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao với thói “chửi trời, chửi người” nhưng luôn khao khát được “làm người”.
Đến với Ngô Tất Tố, một nhà văn của phong trào hiện thực trước Cách mạng, tác giả đã cho ta một cái nhìn, một suy nghĩ khác về hình tượng người nông dân trước Cách mạng tháng Tám qua đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” (trích tác phẩm “Tắt đèn”). Nhân vật nổi bật trong đoạn trích là chị Dậu, một người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp.
Chị Dậu mang trong mình phẩm chất của một người phụ nữ nết na, tần tảo, yêu chồng thương con. Mở đầu đoạn trích là hình ảnh chị Dậu chăm sóc cho anh Dậu, người chồng ốm yếu vừa được bọn cường hào ác bá thả ra sau chuỗi ngày đánh đập vì không có tiền nộp sưu thuế. Gia cảnh khốn cùng không có nổi một hạt gạo để nấu cho chồng bát cháo ăn, cũng may có người hàng xóm cho vay bát gạo để nấu bát cháo loãng cho anh ăn. Cháo chín, chị ngồi quạt cho cháo nguội rồi ần cần, nhẹ nhàng nâng chồng dạy ăn cháo.
Trong cơn nguy kịch của anh Dậu, chị tìm mọi cách để cứu chữa cho chồng. Chị vừa lấy quạt quạt cho nguội để chồng “ăn lấy vài húp” vì chồng chị “đã nhịn xuông từ sáng hôm qua tới giờ còn gì”. Chị khẩn khoản tha thiết mời anh: “Thầy em cố gắng dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột”. Chị bế cái Tửu ngồi ngay xuống cạnh chồng như “cô ý chờ xem chồng ăn có ngon miệng không” với ánh mắt lo lắng, tràn đầy yêu thương.
Giữa những lúc khó khăn, nghèo đói, trăm nghìn những khốn khó ấy, người phụ nữ này vẫn chăm sóc và yêu thương chồng con hết mực. Trước thời gian đó, một mình chị chạy vạy khắp nơi để vay mượn.Túng quẫn, chị buộc phải bán cả đàn chó con trong nhà còn chưa mở mắt.Đau đớn như cắt từng khúc ruột khi chị cùng cực phải bán đi cái Tí, đứa con gái đầu lòng hiếu thảo, ngoan hiền.
Chị đau lòng đến quặn thắt khi nghe câu nói của cái Tí van xin: “U đừng bán con”. Không một người mẹ nào lại có thể đành lòng khi đem đứa con mình rứt ruột sinh ra đi bán, đến ở trong một gia đình khác. Trái tim người mẹ ấy đau đớn vô cùng. Vậy nhưng chị vẫn buộc phải làm vậy bởi chỉ có cách này mới cứu được chồng chị.
Khi phải đánh đổi, hi sinh quá nhiều thứ để đổi lại được tự do cho chồng thì bọn tay sai lại đến thúc ép. Anh Dậu trở về xanh xao, ốm yếu như người từ cõi chết trở về vì sự hành hạ, đánh đập của bọn lính nha nhưng vừa bưng bát cháo lên chưa kịp “húp” thì bọn lính xông vào nhà đòi bắt anh đi vì nhà anh chưa nộp thuế cho người em chồng đã chết từ năm ngoái.
Chị Dậu lạy lục van xin bọn chúng tha cho chồng với lời lẽ thẩn khiết: “Xin các ngài tha cho nhà con, nhà con anh ấy hãy còn yếu lắm”. Sự nhún nhường cầu xin của một người phụ nữ, một người bần cùng của kẻ dưới cầu xin với người bề trên của mình. Vậy nhưng bọn chúng vẫn quyết ra tay, bắt anh Dậu đi bằng được.
Trước tình cảnh ấy, ta lại thấy hiện lên trong người phụ nữ ấy phẩm chất vô cùng đẹp đẽ. Đó là tinh thần phản kháng mạnh mẽ: “Con giun xéo lắm cũng quằn”. Chị Dậu càng nhẫn nhịn chúng lại càng lấn tới, ra tay với chị và chồng chị. Thoạt đầu, chị Dậu cự lại bằng những lời lẽ đanh thép: “Chồng tôi đau ốm, các ông không được phép hành hạ”. Đến khi chúng vẫn tiếp tục hành động thô bạo với chồng, chị vội đứng dậy với sự căm phẫn.
Chị nghiến hai hàm răng: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. Không ai có thể nghĩ một người phụ nữ nhỏ bé ấy trước đó còn dịu giọng cầu xin với thế người dưới quyền vậy mà giờ đây lại cao giọng với bọn sai nha. Sự thay đổi một cách nhanh chóng ấy thể hiện sự mạnh mẽ của con người bị dồn đẩy đến bước đường cùng với những luật lệ vô lí, với tình yêu thương chồng còn tha thiết.
Thế rồi chị “túm cổ tên cai lệ, ấn dúi ra cửa…lẳng người nhà lí trưởng ngã nhào ra thềm”. Chị đanh thép, cương quyết bảo vệ chồng: “Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình, làm tội mãi thế, tôi không chịu được”. Ngô Tất Tố đã vô cùng tài năng khi thực hiện sự chuyển biến tâm lí nhân vật trong một trích đoạn với thời gian ngắn.
Từ một người phụ nữ nhún nhường, khúm núm, nhường nhịn, thậm chí là sợ hãi đến sự mạnh mẽ, quyết liệt chống cự.Đó cũng chính là quy luật “Có áp bức có đấu tranh”.Vậy nhưng hành động ấy của chị Dậu chỉ mang tính chất nhất thời, không lâu dài, mang tính đơn lẻ, độc lập mà không có sự liên kết của tập thể nên chỉ có tác dụng nhất thời.
Nguyễn Tuân đã có nhận định về nhân vật chị Dậu: “Trên cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa, hiện lên một cái chân dung lạc quan của chị Dậu”hay “Ngô Tất Tố đã đưa ra, đã dám đưa ra một nhân vật đàn bà nông thôn khỏe khoắn, lành mạnh như chị Dậu”.
Đúng như cái tên của đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”, người phụ nữ ấy ngời sáng lên những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ phong kiến và sức mạnh tiềm tàng trong tinh thần. Trong bức tranh tối tăm của xã hội phong kiến ấy, vẫn hiện lên một điểm sáng là chị với những phẩm chất cao đẹp. Chị là hình mẫu cho phụ nữ Việt Nam xã hội phong kiến và là đại diện điển hình cho hình tượng người nông dân vùng lên chống áp bức, bất công trước Cách mạng tháng Tám.
Mời bạn đón đọc 🌜 Phân Tích Nhân Vật Bé Hồng 🌜 12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Đoạn trích đã phơi bày bộ mặt tàn ác, bất nhân của chế độ thực dân nửa phong kiến, đồng thời thể hiện sự sâu sắc nỗi thống khổ cũng như sức mạnh phản kháng tiềm tàng của người nông dân. Có đủ các hạng người được tác giả khắc họa sinh động, từng hình tượng nhân vật đều mang một nét phong cách tiêu biểu đặc trưng mà mình thể hiện. Qua đó ta thấy được bức tranh thu nhỏ về đời sống nông thôn Việt nam trước Cách mạng Tháng Tám.
Mở đầu đoạn trích, tác giả nêu nên hoàn cảnh gia đình chị Dậu, thuộc loại cùng nhất hạng cùng đinh, đang lâm vào tình cảnh bức bách của sưu thuế ngày đó. Chồng ốm đau lại bị đánh đập khổ sở dã man, chị Dậu một than một mình chạy vạy khắp nơi ngược xuôi để lo suất sưu cho anh Dậu. Đường cùng, chị đã phải đứt ruột gạt nước mắt mà bán con gái cho Nghị Quế. Một đứa con lên bảy cùng ổ chó cộng lại với được mấy hào bán gánh khoai mới đủ tiền nộp suất sưu để chồng được thả về.
Nào ngờ bọn lí dịch lại bắt phải nộp cả suất sưu của người em chồng đã chết từ năm ngoái, đầy gia đình chị đến mức đường cùng cơ cực. Anh Dậu về nhà với tình trạng thập tử nhất sinh. Bà hàng xóm tốt bụng ái ngại cho cảnh đói nhà chị nên mang cho bát gạo để nấu cháo. Đoạn trích tức nước vỡ bờ là cảnh buổi sớm hôm sau.
Anh Dậu cố gượng ngồi dậy, chưa kịp đưa bát cháo lên miệng thì tên cai lệ và gã đầy tớ của lí trưởng xộc vào định trói anh. Chị Dậu lúc này phải đối mặt với tình thế nguy ngập: chồng chị vừa mới được thả trói, tưởng đã chết đêm qua, bây giờ lại trói lại bị đánh nữa thì anh không sống nổi. không đếm xỉa đến những lời van xin tha thiết của chị Dậu, tên cai lệ bất nhân vẫn nhất định xông vào trói anh Dậu.
Hạng người này trong chế độ thực dân phong kiến bấy giờ là thứ công cụ thực sự, không còn là người, còn cai lệ thì hoành hành tác oai tác quái. Vụ thuế đang là thời điểm tốt nhất để hắn bộc lộ tính chuyên nghiệp trong hành nghề cướp bóc, hà hiếp người khác. Chỉ là một tên tay sai mạt hạng nhưng những gì hắn làm, nói đều thể hiện rõ là bộ mặt của “nhà nước” phi nhân tính, nhân quyền bấy giờ.
Hắn “sầm sập tiến vào”, “trợn ngược hai mắt”, “đùng đùng cai lệ giật phắt cái thừng”, “bịch luôn vào ngực chị Dậu”, “sấn đến để trói anh Dậu”, “tát vào mặt chị một cái bốp”…. hành động của hắn như một con thú dữ.
Hắn chỉ đáp lại những lời van xin thống thiết của chị Dậu bằng những cú đạp, những hành động của một con dã thú đội lốt người. Xuất hiện trong thoáng chốc song nhân vật cai lệ được Ngô Tất Tố khắc họa một cách rõ nét, sống đông hệt như con ác thú thực sự. Qua đó ta thấy thương xót cho cuộc sống người nông dân Việt Nam nói chung bấy giờ.
Thử tưởng tượng cảnh chị dậu phải sống hay cũng chính là hình ảnh người nông dân phải trải qua. Thật kinh khủng. Sống trong không khí âm u, đè nặng bởi sưu cao thuế nặng ấy người nông dân phải chịu sự cùm kẹp như thế nào?
Chị Dậu thương chồng, con hết mực. Bát cháo chị nấu cho anh Dậu và cử chỉ “rón rén bưng”, “chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không” cho thấy nét đẹp trong ban lĩnh phụ nữ của chị. Vẻ đẹp của chị còn được thể hiện một cách đặc sắc khi một mình chị phải đứng ra đương đầu với lũ ác tà là tên cai lệ và người nhà lí trưởng.
Giống bao phụ nữ nông dân khác, chị có thể cam chịu, nhẫn nhục. Chị đã phải “van xin tha thiết” trước bọn người nhân danh “nhà nước”, mặc dù là sự nín nhịn trước sự vô lí, bất nhân. Chỉ đến khi tên cai lệ bất chấp, lại còn bịch ngực chị, xông đến trói anh Dậu thì nước tràn bờ và chị “liều mạng cự lại”.
Ngô tất Tố rất tài tình khi miêu tả rất tinh những diễn biến tâm lí và hành động của chị Dậu, để nó diễn ra một cách chân thực trước mắt người đọc. ta có thể xem quá trình diễn biến ấy làm hai đoạn: từ chịu đựng nhẫn nhục đến phản kháng mãnh liệt
Thoạt đầu chị xưng cháu gọi cai lệ bằng ông. Nhưng đáp lại lời là cái quát của cai lệ “Mày định nói cho cha mày nghe đấy à?” thậm chí còn “giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu”. Lúc này chị vẫn một mực tha thiết “Cháu van ông…ông tha cho “. Đến mức như thế nhưng cai lệ không những không mủi lòng mà còn xông tới đấm vào ngực chị.
Đến đây, mới thấy bắt đầu dấu hiệu phản kháng của người phụ nữ này: chị xưng tôi, gọi cai lệ là ông. “không thể chịu được” nữa, chị Dậu đứng lên với vị trí ngang hàng kẻ thù, đối đầu trực diện
Quá trình diễn biến ấy được đẩy lên đỉnh điểm, kịch tính đã hết mức căng thẳng khi tên cai lệ tát “đánh bốp” vào mặt chị Dậu. thế là thực sự bắt đầu một giai đoạn mới của sự phản kháng. Chị xưng mày tao với tên cai lệ: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Từ cháu-ông đến tôi-ông bây giờ là bà-mày, niềm căm hận bốc lên ngùn ngụt trong chị.
Căm thù, khinh bỉ tột độ, chị sẵn sàng đè bẹp kẻ thù với sức mạnh của một “bản năng sống” mạnh mẽ. sức mạnh ấy được phóng ra như một năng lượng tiềm táng thành những hành động mạnh bạo : túm lấy cổ, ấn giúi ra cửa, túm tóc, lẳng. Trước sức mạnh ấy, hai tên kia đã thất bại thảm hại hay cũng chính là thất bại tất yếu mà lũ tay sai bè phái bán nước hại dân nhận được.
Bằng tài năng miêu tả tâm lí nhân vật, khả năng dựng cảnh, tính huống Ngô Tất Tố đã dựng lên một khung cảnh sống ngột ngạt nơi làng quê. Từ đó mà ta thấy được rõ hơn, đồng cảm hơn với cuộc sống cũng cực ủa người nông dân bấy giờ. Nhưng phía sau đó vẫn là một niềm tin vào tương lai tươi sáng.
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ là một đoạn văn giàu ý nghĩa hiện thực. Ngô Tất Tố xây dựng nhân vật chị Dậu là một người phụ nữ dịu dàng những cũng quyết đoán, thương yêu chồng con nhưng cũng đầy đủ sức mạnh để chiến đấu. Qua đoạn trích, ta thấy nhà văn đã dành tình yêu thương và sự đồng cảm sâu sắc cho chị Dậu cùng với đó lên án xã hội bất công và tàn ác.
Tiếp tục tham khảo 🌹 Sơ Đồ Tư Duy Trong Lòng Mẹ Nguyên Hồng 🌹 10 Mẫu Ngắn Gọn
Tuy nhiên ở người phụ nữ này luôn tiềm tàng một sức sống, sức phản kháng mãnh liệt đối với xã hội đầy bất công ấy. Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” chính là ví dụ điển hình nhất cho vẻ đẹp của chị Dậu và của người phụ nữ Việt Nam.
Vẻ đẹp của nhân vật chị Dậu trước hết là vẻ đẹp của một người phụ nữ yêu chồng, thương con. Mở đầu đoạn trích là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa được thả sau những đánh trận đánh nhừ tử vì không đủ tiền nộp sưu thuế. Đón chồng về trong tình trạng đau yếu tưởng như sắp chết mà trong nhà cũng chẳng có gì ngon để tẩm bổ, may thay người hàng xóm thương tình cho vay bát gạo nấu cháo cho chồng ăn lại sức.
Cháo chín, chị ngồi quạt đợi cho cháo nguội rồi ân cần nâng chồng dậy, dịu dàng như nịnh nọt nói với chồng: “Thầy em cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xốt ruột”. Chị hãy còn để ý xem chồng ăn có ngon miệng hay không. Chính những hình ảnh, cử chỉ đó đã biểu lộ sự săn sóc và yêu thương của một người vợ đối với người chồng dù đang trong cơn khốn khó.
Không những thế, khi anh Dậu vừa mới kề bát cháo lên miệng thì bọn cường hào lại tìm đến nhà lôi ra đánh đập. Thương người chồng ốm yếu, chị không quản ngại mà quý xuống van xin cai lệ: “Cháu xin ông”, “Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!”.
Tuy thế nhưng tiếng kêu van của chị không làm cho đám cường hao có một chút động lòng, chúng cứ thế xông vào trói anh Dậu. Bị dồn vào thế chân tường, không còn con đường nào khác, chị đã tức thì đánh trả lại bọn chúng để bảo vệ người chồng đau yếu không còn chút sức kháng cự. Hành động ấy cũng đã chứng tỏ tình yêu thương của chị đối với chồng bất chấp cả cường quyền bạo ngược.
Yêu chồng, thương con, chị Dậu đau như đứt từng khúc ruột khi phải bán đứa con đầu lòng ngoan ngoãn hiếu thảo. Người đọc có thể thấy rằng chị Dậu là người mẹ tàn nhẫn, vì “hỗ dữ không ăn thịt con” vậy mà ở đây chị Dậu lại nhẫn tâm bán con cho nhà Nghị Quế. Nhưng không phải vậy. Người mẹ như chị phải bán đứa con mình đứt ruột đẻ ra mới biết nó đau đớn thế nào.
Chị nghĩ rằng, sau khi chồng chị được tha về, hai vợ chồng sẽ làm ăn rồi chuộc con. Hơn nữa, cái Tí cũng được vào nhà Nghị Quế sang giàu, tuy chẳng mong cao sang tốt đẹp gì nhưng như thế có khi còn hơn ở nhà. Với tất cả tình yêu dành cho chồng, cho con, chị Dậu chính là một người phụ nữ Việt Nam có những phẩm hạnh rất đáng quý và đáng trân trọng.
Ở nhân vật chị Dậu, người đọc còn thấy vẻ đẹp của một người phụ nữ giàu đức hy sinh. Cảnh nhà quẫn bách, chồng bị bắt trói vì không có tiền nộp sưu, chị Dậu phải cáng đáng vai trò là trụ cột trong cái gia đình khốn khổ ấy. Một mình chị phải chạy vạy khắp nơi, phải bán chó, bán con để lấy tiền nộp sưu cứu chồng khỏi vòng lao lý.
Chị đã phải tất tả ngược xuôi, đổ bao mồ hôi nước mắt để đón chồng về trong cái tình trạng chỉ như cái xác không hồn. Thế nhưng, du khổ cực hay đau xót, người phụ nữ ấy chỉ rơi những giọt nước mắt lặng lẽ chứ không hề một lời kêu than. Một người phụ nữ Việt Nam thật nhân hậu, giàu đức hạnh và tình yêu!
Nhân hậu, giàu đức hạnh và tình yêu nhưng đó cũng chưa phải là tất cả vẻ đẹp của nhân vật chị Dậu. Ở người phụ nữ này còn toát lên tinh thần phản kháng mãnh liệt. Chính trong cái tình cảnh chứng kiến người chồng chuẩn bị lôi đi, tình yêu chồng và lòng căm thù bọn ác bá cường hào đã thôi thúc chị vùng lên dữ dội.
Khi chị đã hết lời van xin nhưng tên cai lệ vẫn không tha cho, cố tình sấn đến định bắt anh Dậu thì lúc này chị Dậu đã cảnh cáo: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. Câu nói đầy cứng rắn, có đủ tình, đủ lí nhưng không ngăn nổi cái ác tiếp diễn. Tên cai lệ sấn tới tát chị và chính cái tát ấy như lửa đổ thêm dầu, làm bùng lên ngọn lửa căm hờn, chị nghiến hai hàm răng: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”.
Tên cai lệ chưa kịp làm gì thêm thì đã bị chị “túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng queo trên mặt đất”. Còn tên người nhà lí trưởng cũng bị chị Dậu “túm tóc, lẳng cho cho một cái, ngã nhào ra thềm”.
Có thể thấy sự chuyển biến tâm lý và hành động rất mạnh mẽ ở nhân vật trong tình cảnh này. Từ một người phụ nữ nông thôn hiền lương, nghèo đói, luôn sợ sệt lũ tay sai thúc thuế, chị đã dám phản kháng chống lại uy quyền. Đến lúc này thì nỗi căm phẫn đã lên đến đỉnh điểm, nỗi sợ hãi cố hữu của kẻ bị áp bức phút chốc tiêu tan, thay vào đó là một bản lĩnh quật khởi rất cứng cỏi: “Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được”.
Tức nước thì vỡ bỡ, có áp bức thì tất có đấu tranh là một quy luật tất yếu. Tuy vậy, sự đấu tranh của chị Dậu chỉ là hành động mang tính bộc phát chứ không có tính định hướng, cũng chưa có tính tập thể cho nên cuối cùng một mình chị vẫn không thể nào chống đỡ lại được cả một chế độ phong kiến thối nát, độc ác, chuyên quyền. Chị vẫn phải vùng chạy, lao vào màn đêm tăm tối như chính của cuộc đời của mình.
Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” được coi là một trong những đoạn trích hay nhất của tác phẩm “Tắt đèn”. Đoạn trích vừa làm nổi bật vẻ đẹp của một người phụ nữ yêu chồng thương con, giàu đức hy sinh và sức phản kháng mãnh liệt, vừa thông qua đó để lên án một xã hội cường quyền, áp bức bất công đẩy người nông dân thấp cổ bé họng vào đường cùng, buộc họ phải vùng lên tranh đấu.
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Phân Tích Tôi Đi Học ☀️ 15 Bài Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất
Ngô Tất Tố là nhà văn xuất sắc trong dòng văn học hiện thực 1930-1945. Viết về nạn sưu thuế dã man đã bần cùng hóa nhân dân ta, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân, tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố là một thành công đặc sắc. Nhân vật chị Dậu đã được khắc họa thành một nhân vật điển hình về người phụ nữ nông dân trong xã hội cũ.
Nhận xét của Nguyễn Tuân rất sắc sảo. Ông chỉ ra giá trị hiện thực của “Tắt đèn” một tác phẩm đã phản ánh sự đen tối lầm than của nông thôn Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, đồng thời khẳng định thành công của Ngô Tất Tố khắc hoạ nhân vật chị Dậu “một chân dung lạc quan ”hiện lên giữa “cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa” ấy.
Chị Dậu có bao phẩm chất tốt đẹp: nghèo khổ mà phẩm giá trong sạch, thương chồng thương con, đảm đang tháo vát, dũng cảm chống lại bọn cường hào.. “Bản chất của nhân vật chị Dậu rất khóe, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra..”.
“Cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa được nói đến trong “Tắt đèn” là làng Đông Xá giữa mùa sưu thuế. Tiếng trống ngũ liên, tiếng tù và, tiếng mõ đốc sưu nổi lên suốt đêm ngày nghe rất rùng rợn, cổng làng bị bọn cường hào đóng chặt để tróc sưu. Bọn cai lệ, bọn tay chân lí trưởng với roi song, tay thước, dây thừng, nghênh ngang đi lại ngoài đường thét bắt trói kẻ thiếu sưu.
Lí trưởng làng Đông Xá ra lệnh cho lũ tay chân: “Tha hồ đánh! Tha hồ trói! Thằng nào bướng bỉnh đánh chết vô tội vạ! Anh Dậu vì tội thiếu sưu mà bị bọn cường hào “bắt trói như trói chó để giết thịt!’’. Em trai anh Dậu chết từ năm ngoái nhưng anh Dậu vẫn phải nộp thay vì “Chết cũng không trốn được sưu Nhà nước!”. Có biết bao gia đình nông dân nghèo khổ bị điêu đứng, bị bắt đánh trói dã man!
Chị Dậu phải bán khoai, bán ổ chó, bán đứa con gái đầu lòng lên 7 tuổi cho Nghị Quế. Chị phải đi ở vú… để kiếm đủ số tiền trang trải hai suất sưu cho chồng và đứa em chồng đã chết! Có thể nói “Tắt đèn” là bức tranh chân thực về xã hội nông thôn đen tối trước cách mạng, đồng thời là bản án đanh thép đối với cái xã hội ấy. Đọc “Tắt đèn”, ta rùng mình cảm thấy“cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa ” như Tố Hữu đã viết:
Giữa cái xã hội đen tối, hãi hùng ấy đã “Hiện lên một cái chân dung lạc quan của chị Dậu”. Ngô Tất Tố không chỉ thấu hiểu đời sống nông thôn mà còn có tình cảm gắn bó với những người dân cày lam lũ, nghèo khổ. Ông đã dành cho nhân vật chị Dậu sự đồng cảm, xót thương và quý trọng. Ông đã viết nên những lời tốt đẹp nhất về cái chân dung lạc quan của chị Dậu. Chị Dậu cần cù chịu khó làm ăn “đầu tắt mặt tối” thế mà “cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc”.
Tai họa dồn dập: hai cái tang mẹ chồng và em chồng, rồi anh Dậu bị ốm nặng kéo dài mấy tháng trời, gia đình chị trở thành “cùng đinh”. Thiếu sưu, chồng bị bắt, bị đánh trói dã man. Một nách ba đứa con thơ, trong nhà không còn một hột gạo, chị Dậu tất tả ngược xuôi tìm mọi cách để cứu chồng. Chị đã phải bán gánh khoai, bán ổ chó, đứt ruột bán cái Tí lên 7 tuổi cho mụ Nghị, mới trả đủ một suất sưu cho chồng! Chị còn phải đi ở vú để trang trải “món nợ Nhà nước” cho đứa em chồng đã chết. Trước mọi tai họa, chị đã vững vàng chống đỡ.
Trong cảnh “Tức nước vỡ bờ”, “cái chân dung lạc quan của chị Dậu” đã tỏa sáng. Chị nấu cháo, lấy quạt quạt cho cháo chóng nguội, ân cần mời chồng, an ủi chồng đang ốm “rề rề” ăn cháo. Trước sự chửi mắng và thái độ hách dịch côn đồ của tên cai lệ, chị đã nhún mình van xin “tha cho chồng”… Nhưng khi bị tên cai lệ “ bịch vào ngực”, “tát đánh bốp vào mặt”, anh Dậu sắp bị trói, chị Dậu đã “nghiến hai hàm răng” thách thức: “Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!”.
Với quyết tâm bảo vệ chồng, với sức mạnh và lòng dũng cảm, chị Dậu đã đánh ngã nhào hai tên côn đồ độc ác, những kẻ “hút nhiều xái cũ”. Chị căm giận phủ định mọi thế lực tàn ác của chính quyền thực dân. Chị nói với chồng sau khi đã trừng trị lũ đầu trâu mặt ngựa: “Thà ngồi tù. Để cho chúng làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được… ”. Cái chân dung chị Dậu “lạc quan” lắm chứ! Đẹp lắm chứ!
Đói cho sạch, rách cho thơm. Đọc “Tắt đèn ”, ta khâm phục trước phẩm cách trong sạch của chị Dậu. Chị Dậu đã “vứt toẹt nắm bạc” vào mặt tên Tri phủ Tư Ân khi hắn giở trò chó má! Chị cũng đã đẩy cụ cố Thượng ra, khi lão già ôm lấy chị… Bạo lực, tù đày, chị không sợ. Tiền bạc không mua chuộc được người đàn bà nhà quê này! Trong đêm tối như mực, ta thấy “hiện lên một cái chân dung lạc quan của chị Dậu”.
Có người cho rằng chị Dậu manh động! Lại có ý kiến cho rằng cái kết của Tắt đèn nhuốm màu bi quan? Nhà văn Nguyễn Tuân đã phát hiện ra “Bản chất của chị Dậu rất khoẻ, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra”. Đó là một ý rất hay, rất đặc sắc.
Ngày nay, nông thôn Việt Nam đã có nhiều đổi mới. Xóm làng đã “ngói hoá”. Ánh điện đã tỏa sáng nhiều xóm thôn. Những cái Tí đã được cắp sách đến trường. Đọc “Tắt đèn “là một dịp để mọi người “ôn cũ biết mới”. Ta càng thấy cái tâm và cái tài của Ngô Tất Tố khi ông miêu tả bức chân dung lạc quan của chị Dậu.
Đừng bỏ qua 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Tôi Đi Học 🔥 11 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Ngắn Hay
Trước cách mạng tháng Tám cuộc sống con người rơi vào cảnh lầm than. Con người ta bị dồn vào đường cùng, chà đạp không thương xót. Có người bị hoàn cảnh khuất phục dẫn đến mất đi nhân tính, đánh mất bản chất vốn có của mình, có người cố vùng vẫy để không tự vấy bẩn nhân cách cao đẹp của mình nhưng rồi dù có dẫy dụa cũng không thể cứu vớt được cuộc sống không cùng ấy vậy nên họ chọn cách tự tước đoạt đi mạng sống của mình.
Khác hẳn với những người trên kia có người lại cố tự thoát ra khỏi bi kịch của đời mình, van xin không được, chịu nhục chịu đau cũng không được nên con người ta tự vùng mình lên đánh trả. Họ đánh cược cuộc đời mình vào ván bài đã biết trước kết quả nhưng họ vẫn làm, vì con người ai cũng có giới hạn của mình, và sức mạnh của tình yêu đã mách bảo họ phải vùng dậy, đập tan cái thứ dơ bẩn đang chà đạp cuộc sống của mình.
Đó là Chị Dậu trong đoạn trích ” Tức nước vỡ bờ”, một người phụ nữ lương thiện nhưng lại rơi vào bi kịch cuộc sống như biết bao con người khốn khổ khác trong xã hội cũ, trong đoạn trích Ngô Tất Tố đã thành công trong việc miêu tả tâm lí nhân vật chị Dậu.
Con người sống trên đời ai ai cũng có quyền bình đẳng, quyền được làm chủ cuộc sống của mình. Quyền được sống là quyền cơ bản của con người vậy tại sao trong cái xã hội thối nát kia con người ta lại phải trả tiền cho việc mình được sống.
Hằng ngày con người ta phải lao động cực nhọc, cơm còn chẳng có mà ăn nhưng họ vẫn phải đóng đủ mọi thứ thuế, ăn ở dè dặt, dành dụm mãi nhưng may ra cũng chỉ đủ ăn, người ta làm để nuôi thân và tuyệt nhiên không sống phụ thuộc vào ai, không cần ai bảo vệ mạng sống của họ vậy tại sao họ lại phải đóng thuế cho việc mình được sống?
Nghe đến đây đã thấy sự hèn hạ và phi lý của cái xã hội thối nát cũ rồi nhưng điều đáng hận mới chỉ thực sự bắt đầu. Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã vẽ lên đỉnh điểm của sự phẫn nộ trong lòng người đọc.
Mở đầu đoạn trích có thể là tiếng thở phào nhẹ nhõm của chị Dậu khi đã chạy ngược chạy xuôi gom góp đủ tiền để nộp sưu cho chồng, tưởng rằng sau đó sẽ là cuộc sống yên bình, một kết thúc có hậu cho đôi vợ chồng khốn khổ ấy nhưng niềm vui chưa được bao lâu thì nụ cười phải chợt tắt.
Người đàn bà bất hạnh kia lại phải đóng thêm suất sưu cho em chồng, người bất hạnh đã chết vì sự chà đạp của xã hội ấy. Khốn nạn thay, nực cười cho sự vô lý của xã hội ấy, người sống dở chết dở còn phải đóng thuế cho người chết chỉ vì lòng tham không đáy của bọn quan lại nhũng nhiễu, vô lương tâm. Chỉ vì trước khi chết người ta có cố thở thêm vài cái và khốn nạn thay lại chót thở sang năm mới.
Chỉ vì cậu em chồng bất hạnh ấy mà cả nhà chị Dậu đâm ra bất hạnh thêm theo, trong khi chồng chị còn đang sống dở chết dở nửa tỉnh nửa mê nằm bất động ngoài kia thì tai họa lại ập đến. Chị ngày đêm chăm sóc chồng, hết mực săn sóc để anh ấy mau khỏe lại, hồi phục sức khỏe thế nhưng khi người đàn ông ấy vừa cầm bát cháo lên chuẩn bị ăn thì bọn tay sai kia lại ập đến.
Chúng hống hách, mặc kệ trời đất, mặc kệ người đàn bà khốn khổ kia đang thành khẩn van nài, chị quỳ lạy van xin, vứt bỏ lòng tự trọng và van xin hết mức nhưng lại phải nhận lại những lời lẽ khinh bỉ không chút cảm xúc, bọn phong kiến xưa nay đâu coi ai ra gì, dân đen như chị chỉ giống như loại cỏ rác để cho chúng chà đạp, lời nói của chị chẳng đáng để chúng phải suy nghĩ vậy nên chúng cứ mặc sức mà hống hách, chà đạp lên những sinh mạng bé nhỏ.
Trót sinh ra trong xã hội lầm than nên con người phải học cách sống cúi đầu, vậy là chị Dậu cứ thành khẩn van nài, những tiếng kêu oan đầy thành khẩn “Hai ông làm phúc nói với ông lý cho cháu khất” thế nhưng dường như bọn tay sai tàn ác dường như không hiểu được tiếng người để rồi chúng lại lên giọng nói triết lý “Mày định nói cho mày nghe đấy à? Sưu của Nhà nước mà dám mở mồm xin khất”.
Sao lại có chuyện ngược đời như vậy, nhà nước nào mà lại chèn ép dân lành đến như vậy, cái loại nhà nước kiểu gì mà chà đạp con người bóc lột kiệt quê đến như thế. Chúng chỉ là những con quỷ hút máu, nhưng con sói dại hung hăng nhăm nhe ăn thịt con mồi chứ không hơn không kém.
Con người nhỏ bé ấy vẫn tha thiết van nài mong chờ sự cảm thông hay dù chỉ là một chút lòng thương hại từ kẻ săn mồi kia, mặc cho đã cố gắng, đã hạ mình nhục nhã hết mức có thế nhưng nhẫn tâm thẳng tay lao đến định bắt anh Dậu. Chị có van xin, có nài nỉ thành khẩn đấy nhưng nhận lại là những lời lẽ vô cảm, chị bị những phát đòn thẳng tay từ tay cai lệ không hiểu tiếng người.
Chị Dậu tuy nghèo chứ không hèn, van nài nhục nhã nhưng không phải là chịu khuất phục, chị cũng có giới hạn của mình, người ta bảo “con giun xéo lắm cũng quằn”, con người ta khi bị chà đạp quá mức và không còn gì để mất ắt hẳn sẽ vùng lên và đó là bản năng vốn có của con người. Ngọn lửa trong chị bỗng chốc bùng cháy dữ dội, cơn thịnh nộ từ người đàn bà đã buông bỏ tất cả để cứu lấy chồng mình đã thức tỉnh, từ cách xưng hô ” cháu- ông” nay đã chuyển thành ” bà – mày”.
Nói không được, van xin cũng không tha nên chị chỉ còn cách chống cự, đâu ai dễ dàng để bọn ác nhân hành hạ người thân của mình ngay trước mắt, và sức mạnh của tình yêu thương đã thôi thúc chị phải vùng dậy đấu tranh.
Vậy là chị đã túm cổ tên cai lệ ấn dúi ra phía cửa, mạnh mồm hung hăng thế nhưng tên cai lệ cũng chỉ là một thằng nghiện ngập dặt dẹo nên trước cái đẩy đầy phẫn nộ của chị Dậu hắn đã ngã chỏng quèo, tiếp đó chị túm tóc tên người nhà lí trưởng lẳng cho một cái làm hắn ngã nhào ra thềm, trông lũ ác nhân hùng hổ lúc đó chẳng khác gì một mớ hỗn độn yếu ớt và thảm hại, điều đó thật khiến cho người đọc hả lòng hả dạ.
” Tức nước vỡ bờ” quả đúng là một nhan đề hoàn toàn phù hợp cho đoạn trích. Diễn biến tâm lí nhân vật chị Dậu diễn ra nhanh nhưng hoàn toàn phù hợp với tình huống truyện, từ khép nép van nài và kết thúc là cao trào đỉnh điểm, cơn phẫn nộ của con người cùng cực đã dẫn đến hành động đáp trả bọn tay sai tàn ác. Và đó cũng là quy luật của cuộc sống nhân quả, tức nước ắt sẽ vỡ bờ.
Gợi ý 🌳 Phát Biểu Cảm Nghĩ Của Em Về Dòng Cảm Xúc Của Nhân Vật Tôi Trong Truyện Ngắn Tôi Đi Học 🌳 15 Bài Hay
Ngô Tất Tố là một cây bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Trong cuộc đời sáng tác văn chương của mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm được coi là những kiệt tác nghệ thuật. Trong số ấy, tiểu thuyết Tắt đèn xứng đáng là một áng văn tiêu biểu cho tài năng và phong cách nghệ thuật của Ngô Tất Tố.
Tắt đèn là một cuốn tiểu thuyết chỉ có vài trăm trang. Một dung lượng không nhiều nhưng vừa đủ để Ngô Tất Tố khái quát được xã hội nông thôn Việt Nam đương thời một cách tập trung, điển hình nhất. Giá trị nghệ thuật của tiểu thuyết Tắt đèn, thiết nghĩ phải tốn khá nhiều giấy mực để bàn luận. Trong giới hạn của bài viết này, chúng ta hãy dừng lại ở việc tìm hiểu những nét đặc sắc của ngòi bút Ngô Tất Tố trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ. Đây là đoạn văn hay, rết tiêu biểu cho bút pháp tiểu thuyết của tác giả Tắt đèn.
Nét nổi bật nhất và cũng là thành công nhất của Ngô Tất Tố chính là nghệ thuật khắc họa nhân vật. Chỉ với chưa đầy ba trang văn, Ngô Tất Tố đã xây dựng được hai nhân vật đạt đến mức điển hình bất hủ. Đó là cai lệ và chị Dậu. Cai lệ chỉ là một tên tay sai mạt hạng, không có tên riêng, nhưng lại được tác giả tập trung miêu tả nổi bật, trở thành một tính cách điển hình với đầy đủ những nét chung và riêng.
Cai lệ là hình ảnh đại diện cho bọn tay sai nói riêng và đại diện cho cái chính quyền thực dân tàn bạo, bất nhân nói chung. Hắn phảng phất cái bóng dáng của tất cả những tên tay sai hung hãn ngoài đời cũng như các sáng tác hiện thực lúc bấy giờ. Những cai lệ là một tên tay sai không giống với bất cứ tên nào mà ta đã gặp.
Hắn có những đặc điểm riêng không thể trộn lẫn, và được tô đậm. Đây là giọng quát thét hông hách (Thằng kia!, mày định nói cho cha mày nghe đấy à?); những lời xỏ xiên đểu cáng (Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à?); và những hành động hung hãn (Bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch, Tát vào mặt chị một cái đánh bốp, Sấn đến để chói anh Dậu, Nhảy vào cạnh anh Dậu…).
Và đây, cái giọng khàn khàn vì hút nhiều xái cữ, cái thân hình lẻo khoẻo vì nghiện thuốc phiện, cái tư thế ngã chỏng quèo mà miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu,..Tất cả những chi tiết đó đã tạo nên một tên tay sai vừa trắng trơn, tàn ác, vừa đểu giả, đê tiện. Hình ảnh ấy đã để lại một ấn tượng đặc biệt trong lòng độc giả: vừa khinh bỉ ghê tởm, vừa căm ghét.
Đối lập với hình ảnh tên cai lệ là hình ảnh chị Dậu. Chị Dậu cũng là một thành công của Ngô Tất Tố trong việc xây dựng nhân vật đạt đến mức điển hình hóa cao độ. Nhân vật chị Dậu có tính cách khá đa dạng: vừa hiền lành, lễ phép, vừa ngỗ nghịch, đanh đá, vừa nhẫn nhục vừa phản kháng quyết liệt, vừa chan chứa yêu thương vừa ngùn ngụt căm thù. Ngô Tất Tố không chỉ thành công trong việc xây dựng một hình tượng người phụ nữ nông thôn với tính cách điển hình, ông còn rất thành công trong việc khắc họa tâm lí nhân vật chị Dậu.
Trong đoạn trích, chị Dậu là người có đời sống nội tâm khá phong phú. Ngòi bút Ngô Tất Tố đã lách sâu vào tâm hồn nhân vật để thể hiện nó một cách chân thực và biện chứng.
Từ chỗ nhẫn nhục chịu đựng, tha thiết van xin, đến chỗ tức quá không thể chịu được, mà liều mạng cự lại; từ thái độ lễ phép, tôn trọng tên cai lệ đến sự ngỗ nghịch, đanh đá nghiến răng: Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem, rồi bất chấp thà ngồi tù xông vào đấu sức với hai tên tay sai… Tất cả vừa phù hợp với lôgíc khách quan của cuộc sống: Tức nước vỡ bờ, vừa phù hợp với tính cách chị Dậu.
Cùng với thành công về phương diện xây dựng nhân vật, Ngô Tất Tố còn sử dụng ngòi bút miêu tả rất linh hoạt, sinh động. Chỉ một vài nét phác họa, nhà văn đã vẽ ra trước mắt người đọc những cảnh tượng sống động khiến họ có cảm giác như đang tận mắt chứng kiến nó. Tiếng trống và tiếng tù và đã thủng thẳng đua nhau từ phía đầu làng đến đình. Tiếng chó sủa vang các xóm. Chỉ hai câu văn mà tác giả đã gợi tả được cả cái không khí ngột ngạt của làng quê Việt Nam trong mùa sưu thuế.
Đặc biệt trong đoạn văn miêu tả cảnh chị Dậu liều mạng cự lại hai tên tay sai. Dưới ngòi bút thần tình của Ngô Tất Tố, các hoạt động diễn ra dồn dập mà vẫn rất rõ nét: từ hành động của tên cai lệ (tát chị Dậu và nhảy vào anh Dậu) đến việc chị Dậu nghiến hai hàm răng rồi túm tóc tên cai lệ, ấn dúi ra cửa khiến hắn ngã chỏng quèo; từ việc tên người nhà lí trưởng sấn sổ bước đến giơ gậy chực đánh đến việc hai bên giằng co, vật nhau, rồi chị Dậu túm lấy tóc hắn lẳng cho một cái khiến tên này ngã nhào ra thềm…
Tất cả diễn ra mau lẹ như trong một pha gay cấn của một cuốn phim; vừa diễn tả được diễn biến truyện vừa thể hiện được tính cách, tâm lí nhân vật, và sức sống mạnh mẽ, tinh thần phản kháng tiềm tàng của chị Dậu. Có thể nói, Ngô Tất Tố có óc quan sát rất tinh tường.(Vũ Trọng Phụng) và miêu tả tuyệt khéo (Phan Ngọc).
Một đặc sắc nghệ thuật nữa của đoạn trích là ngôn ngữ kể chuyện, miêu tả của tác giả và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Trong ngôn ngữ kể chuyện và miêu tả, tác giả sử dụng rất nhiều từ ngữ vừa giàu sắc thái biểu cảm, vừa phù hợp với ti hân vật và các hoạt động.
Điệu bộ của bá lão láng giềng thì lật đật; thằng Dần thì vục đầu vừa thổi vừa húp soàn soạt, anh Dậu thì uốn vai ngáp uể oải chống tay…, ngẩng đầu lên, run rẩy, lăn đùng; bọn tay sai ban đầu thì nhảy vào, sấn sổ, sau đó, đứa thì ngã chồng quèo đứa thì ngã nhào… Tất cả những ngôn từ ấy đều rất sống, rất có hồn.
Ngôn ngữ nhân vật vừa đa dạng, vừa độc đáo. Mỗi nhân vật đều có ngôn ngữ riêng. Ngôn từ của tên cai lệ thì thô tục, đểu cáng, của tên người nhà lí trưởng thì mỉa mai, bóng gió, lời anh Dậu thì run rẩy, sợ sệt, lời bà lão láng giềng thì thật thà, hiền hậu. Đặc biệt là ngôn ngữ của chị Dậu, khi thì thiết tha, mềm mỏng, lúc đanh thép, quyết liệt. Qua ngôn ngữ, tính cách nhân vật bộc lộ khá rõ nét.
Bên cạnh đó, những khẩu ngữ của quần chúng nông dân như thầy em, nhà cháu được Ngô Tất Tố sử dụng rất hồn nhiên, nhuần nhuyễn, khiến cho câu văn giản dị mà đậm đà, mang hơi thở của đời sống. Những thành công và đặc sắc Ngô Tất Tố trong đoạn trích cũng là những thành công nghệ thuật của tác phẩm. Nghệ thuật ấy kết hợp với giá trị nội dung tư tưởng, đã đem lại sự hấp dẫn và sức sống lâu bền cho cuốn tiểu thuyết này.
Có thể bạn sẽ thích 🌹 Cảm Nhận Về Cô Bé Bán Diêm 🌹 15 Bài Văn Cảm Nghĩ Hay
Việt Nam, đất nước nông nghiệp, cái nôi của nền văn minh lúa nước. Trước cách mạng tháng Tám hơn 90% dân số sống bằng nghề nông. Và từ buổi đầu khi văn học ra đời và phát triển, đề tài người nông dân đã trở thành mảnh đất tốt để ươm lên những mầm cây văn học với những tác phẩm đặc sắc.
“Tắt đèn” của Ngô Tất Tố và “Lão Hạc” của Nam Cao là hai tác phẩm như vậy. Đọc những sáng tác này ta thấy vẻ đẹp toả sáng trong tâm hồn của tầng lớp lao động: “Mặc dù gặp nhiều đau khổ bất hạnh nhưng người nông dân trước cách mạng tháng Tám vẫn giữ trọn phẩm chất tốt đẹp của mình”.
Trước hết đọc hai văn bản điều làm ta ấn tượng về người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám chính là cuộc sống đau khổ, bất hạnh với cảnh lầm than khổ cực.
Chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố là một hình tượng tiêu biểu. Chị Dậu đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào mà vẫn “cơm không đủ no, áo không đủ mặc”. Gia đình chị đã “lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh”. Chồng chị ốm đau, vụ thuế đến cùng biết bao tai hoạ… Nào là phải chạy đôn, chạy đáo để cho đủ số tiền nộp sưu cho chồng mà không có một hạt cơm nào vào bụng.
Chị như phải mò kim dưới đáy bể, như lạc vào cái sa mạc cát nóng bỏng, gió thổi tạt vào người như lửa. Trong cảnh “nửa đêm thuế thúc trống dồn” không có tiền nộp sưu cho chồng, vay mượn thì đều là bạn nghèo ai cũng không có, kẻ nhà giàu địa chủ thì đòi trả lãi với giá cắt cổ, chị đành phải bán đứa con ngoan ngoãn bé bỏng mà chị đã mang nặng đẻ đau, mà đã đến lúc nó có thể giúp chị rất nhiều. Chúng ta có thể cảm nhận được nỗi đau như đứt từng khúc ruột của chị khi bán cái Tý.
Cái cảnh chị nuốt nước mắt vào trong mà van lạy cái Tý, thằng Dần để chúng đồng ý cho chị dẫn cái Tý sang nhà Nghị Quế làm người đọc không cầm lòng được. Cuộc đời chị bất hạnh này lại nối tiếp khổ đau kia. Sau khi bán con và đàn chó mới đẻ, cóp nhặt đem tiềm nộp sưu cho chồng xong tưởng chừng nạn kiếp đã xong mà cố gắng sống những ngày bình yên bên người chồng ốm yếu, nhưng bọn lý trưởng, chánh tổng trong làng lợi dụng thuế má muốn đục nước béo cò bắt chị phải nộp thêm suất sưu cho em chồng đã chết từ năm ngoái.
Người đã chết, đã đi vào cõi hư vô, còn đâu mà bắt người ta đóng thuế, thật quá bất công. Rồi chị còn phải chứng kiến cảnh chổng ốm đau bệnh tật, rũ rượi như một chiếc lá héo khô bị ném vào nhà, chị chăm sóc cho anh chưa kịp hoàn hồn thì bọn cai lệ và người nhà lý trưởng xông vào định bắt trói anh điệu ra đình vì thiếu sưu của em mình. Trong hoàn cảnh ấy không thể chịu đựng được nữa, tình yêu thương chồng và nỗi tức giận bị đè nén bấy lâu đã thôi thúc chị hành động.
Chị đã xông vào bọn chúng đánh trả quyết liệt sau những lời van xin thiết tha không hiệu nghiệm để rồi kết quả là cả hai vợ chồng chị bị bắt giải ra đình để quan tư phủ xử tội vì đã chống lại “người nhà nước”. Những khổ cực mà chị Dậu phải chịu cũng như những tâm lý uất ức trào dâng bột phát thể hiện thành hành động phản kháng của chị chính là hình ảnh chân thực về cuộc sống của người nông dân trước cách mạng tháng Tám.
Nếu đọc “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, ta cảm thương cho thân phận của người phụ nữ nông dân dưới chế độ phong kiến thực dân bao nhiêu thì khi đọc “Lão Hạc” của Nam Cao ta lại càng thương cảm và xót xa cho số phận của người nông dân với cuộc sống mòn mỏi trong chờ đợi và hy vọng mong manh mà cuộc sống cô đơn gặm nhấm tâm hồn và thể xác già nua của lão Hạc. Lão phải sống cô đơn buồn tủi, trong những ngày xa con, lão chỉ có “cậu Vàng” làm bạn.
“Vàng” là kỷ niệm thiêng liêng của đứa con để lại, càng thương nhớ con lão càng quý mến con Vàng. Lão âu yếm trò chuyện với nó như người ông hiền hậu ân cần với đứa cháu ngoan. Yêu thương cậu vàng như vậy nhưng bị dồn vào nước đường cùng, lão đành làm một việc nhẫn tâm là phải bán nó đi. Khi kể lại với ông giáo, lão đau đớn xót xa tột cùng: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những nếp nhăn xô lại ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít…”.
Lão khổ tâm dằn vặt vì chuyện bán chó. Và cái đói cứ đeo đẳng làm cho lão dù đã phải bòn củ chuối, rau má, sung luộc để kiếm bữa cho qua ngày mà vẫn không xong. Cuối cùng lão phải kết liễu cuộc đời bằng liều bả chó xin được của Binh Tư. Ôi cái chết thật đau đớn và dữ dội, lão “vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, áo quần xộc xệch, lão tru tréo, bọt mép sùi ra…”. Hình ảnh lão Hạc gợi trong ta ký ức buồn đau của thảm cảnh 2 triệu người chết đói năm 1945 trước khi cách mạng tháng Tám nổ ra.
Người nông dân trong xã hội cũ gặp nhiều đau khổ bất hạnh là thế nhưng vượt lên trên những đau khổ bất hạnh đó, họ vẫn luôn giữ trọn những phẩm chất cao đẹp của mình mà đọc tác phẩm dù hiện thực có buồn thương nhưng nhân cách và phẩm chất cao quý của họ vẫn ngời sáng trong đêm tối khiến ta thêm tin yêu con người, tin yêu cuộc sống.
Ngay trong hoàn cảnh bất hạnh khổ cực vì bị hà hiếp bóc lột chị Dậu vẫn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ yêu thương chồng con đảm đang tháo vát. Trong văn bản “Tức nước vỡ bờ” hình ảnh chị dùng những lời lẽ van xin thảm thiết và dám xông vào chống trả quyết liệt tên cai lệ và người nhà lý trưởng để cứu chồng là biểu hiện sâu sắc nhất tình cảm yêu thương hy sinh vì chồng con của chị Dậu.
Cử chỉ bê bát cháo đến bên chồng với những lời nói tự nhiên như tấm lòng chân thành của chị đối với chồng Thầy em cố dậy húp ít cháo cho đỡ mệt…” đã làm người đọc xúc động thực sự trước tấm lòng thơm thảo, vẻ đẹp nữ tính dịu dàng với tình cảm mộc mạc của người phụ nữ ấy. Ở chị là sự hội tụ những vẻ đẹp tự nhiên của người phụ nữ Việt Nam mà Ngô Tất Tố muốn ngợi ca.
Cũng xuất phát từ tình yêu chồng mà chị đã vùng lên quật ngã tên cai lệ và người nhà lý trưởng để bảo vệ chồng. Hành động của chị dù là bột phát nhưng suy nghĩ đầy ý thức “Thà ngồi tù, để cho nó làm tình làm tội mãi thế tôi không chịu được”. Ý thức đó phải chăng là ý thức phản kháng tiềm tàng trong người nông dân mà Ngô Tất Tố dường như đang “xui người nông dân nổi loạn” (theo nhận xét của Nguyễn Tuân) để nhằm phản ánh quy luật: có áp bức có đấu tranh, “Tức nước vỡ bờ”.
Nếu như chị Dậu tiêu biểu cho người phụ nữ nông dân trong những vẻ đẹp nhân ái vị tha và tiềm tàng sức sống, sự phản kháng mãnh liệt thì ở nhân vật lão Hạc ta lại cảm nhận được tâm hồn và tình yêu tha thiết, niềm tin cháy bỏng và một nhân cách cao thượng đáng nể trọng của người nông dần già nua nghèo hèn phải tìm đến cõi chết.
Nếu nói lão Hạc chết vì đói nghèo quả là hoàn toàn chưa hiểu hết ý đồ của nhà văn. Nam Cao đã khơi vào “luồng chưa ai khơi” trong hiện thực lúc bấy giờ là tinh thần trách nhiệm, tình yêu thương nhân ái, đức hy sinh cao cả của người cha trong hoàn cảnh vật lộn với cái đói.
Lão Hạc chết là để bảo toàn danh dự và nhân cách, để giữ trọn tình yêu cho con, để thanh thản ra đi sau những gửi gắm về mảnh vườn, tiền cưới vợ cho con, tiền lo ma chay để khi ra về nơi miền cực lạc xa xôi còn có hàng xóm lo cho. Chính sự chất phác lương thiện đã giúp lão có những hành động đầy tự trọng ấy, lão không muôn liên luỵ đến ai mà chỉ âm thầm chịu khổ một mình.
Lão Hạc còn là người rất đôn hậu và cao cả, lão đã khóc hu hu, đã xót xa đến tột cùng khi phải bán con chó, lão ân hận, lão khóc như người có tội, lương tâm lão bị dày vò, cắn dứt chỉ vì không thuỷ chung với một con chó. Lòng nhân ái của lão khiến ta cảm động biết nhường nào.
Những đức tính khiến chúng ta phải cảm phục nhất ở lão Hạc đó là lòng yêu thương con bao la, đức hy sinh cao cả. Chính tình yêu con đã giúp lão ngăn con không bán vườn. Lúc khoẻ lão cố cày thuê cuốc mướn, đồng áng từ lúc bình minh đến khi hoàng hôn buông xuống, tất cả chỉ để dành dụm cho con ít tiền.
Nhưng sau trận ốm, lão đã chẳng còn gì, thương con nên lão không muốn tiêu phạm vào một đồng tiền nào dành cho con. Lão nhịn ăn, nhịn mặc, một lòng vì con: để rồi lão đã chọn con đường quyên sinh để giữ trọn mảnh vườn cho con. Cái chết dữ dội và kinh hoàng lắm. Lão thương con ngay đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời, nhưng lòng lão thanh thản đến êm dịu.
Cảm ơn Ngô Tất Tố, cảm ơn Nam Cao! Họ đã cho chúng ta hiểu rõ cái cuộc sống cùng quẫn, bi thảm của người nông dân, làm chúng ta càng cảm phục trước những phẩm chất cảo quý, đẹp đẽ và trong sáng của họ. Giữa bùn đen nhưng tâm hồn họ vẫn toả hương thơm ngát như đoá hoa sen đồng nội. Nhìn vào cuộc sống của người nông dân ngày nay ta càng xót xa cho cha ông thuở trước và thêm tin yêu cuộc sống mới.
Chia sẻ 🌼 Viết Đoạn Văn Khoảng 5 Đến 7 Câu Với Nhan Đề Gửi Tác Giả Truyện Cô Bé Bán Diêm 🌼 15 Mẫu Hay
Cập nhật thông tin chi tiết về Top 7 Bài Văn Phân Tích Nhân Vật Thị Kính Trong Vở Chèo “Quan Âm Thị Kính” Lớp 7 Hay Nhất trên website Bgxq.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!