Xu Hướng 9/2023 # Văn Mẫu Lớp 7: Viết Bài Văn Phân Tích Một Nhân Vật Văn Học Yêu Thích Trong Cuốn Sách Đã Đọc Dàn Ý &Amp; 4 Bài Văn Mẫu Lớp 7 # Top 13 Xem Nhiều | Bgxq.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Văn Mẫu Lớp 7: Viết Bài Văn Phân Tích Một Nhân Vật Văn Học Yêu Thích Trong Cuốn Sách Đã Đọc Dàn Ý &Amp; 4 Bài Văn Mẫu Lớp 7 # Top 13 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 7: Viết Bài Văn Phân Tích Một Nhân Vật Văn Học Yêu Thích Trong Cuốn Sách Đã Đọc Dàn Ý &Amp; 4 Bài Văn Mẫu Lớp 7 được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Bgxq.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Viết bài văn phân một nhân vật văn học yêu thích trong cuốn sách đã đọc

Nội dung chi tiết bao gồm dàn ý và 4 mẫu. Mời các bạn học sinh lớp 7 tham khảo để hoàn thiện bài viết của mình.

1. Mở bài

Giới thiệu ngắn gọn về nhân vật và nêu ấn tượng ban đầu về nhân vật.

2. Thân bài

– Bối cảnh và những mối quan hệ làm nổi bật đặc điểm nhân vật.

– Những đặc điểm nổi bật của nhân vật thể hiện qua các bằng chứng trong tác phẩm (chi tiết về ngoại hình, ngôn ngữ, hành động, suy nghĩ… của nhân vật).

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật: cách sử dụng chi tiết, ngôn ngữ, biện pháp, nghệ thuật…

– Ý nghĩa của hình tượng nhân vật.

3. Kết bài

Những bài học, suy nghĩ, ấn tượng sâu sắc mà nhân vật để lại trong tâm trí em.

“Bức tranh của em gái tôi” là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Tạ Duy Anh. Nổi bật trong truyện là nhân vật Kiều Phương – một cô bé nhân hậu, tài năng.

Nhà văn đã khắc họa Kiều Phương qua lời kể của “tôi” – người anh trai. Kiều Phương hiện lên là một cô bé hồn nhiên, nghịch ngợm. Cô bé rất thích lục lọi đồ vật trong nhà, tự chế màu vẽ bằng vật dụng có sẵn. Khuôn mặt của Kiều Phương lúc nào cũng bị bôi bẩn. Bởi vậy, người anh đã đặt cho cô bé biệt danh là “Mèo”. Mỗi lần bị nhắc nhở, Kiều Phương lại “vênh mặt” trả lời hồn nhiên “Mèo mà lại! Em không phá là được”.

Nhân vật Kiều Phương còn là một cô bé có tài năng hội họa. Chú Tiến Lê – một họa sĩ cũng là bạn của bố Kiều Phương đã tình cờ phát hiện ra điều đó. Khi nhìn thấy những bức tranh của Kiều Phương, chú đã phải thốt lên rằng cô bé “là một thiên tài hội họa” và các bức tranh “có thể đem đóng khung treo ở bất cứ phòng tranh nào”. Điều đó khiến cho Ba của Kiều Phương thì hết sức ngạc nhiên: “Con gái tôi vẽ đây ư? Chả lẽ lại đúng là nó, cái con Mèo hay lục lọi ấy!”, “Ôi, con đã cho bố một bất ngờ quá lớn”. Còn mẹ của Kiều Phương thì không kìm được xúc động trước lời khen của họa sĩ Tiến Lê dành cho con gái mình. Chú Tiến Lê tặng “đồng nghiệp” hẳn một hộp màu ngoại xịn”. Chỉ có người anh trai là tỏ ra bực bội, gắt gỏng, bởi cậu không thấy mình có năng khiếu gì và không còn thân thiết với em gái như trước.

Dù vậy, Kiều Phương vẫn yêu mến anh trai. Cô bé đem tình cảm đó vẽ thành bức tranh “Anh trai tôi”. Bức tranh đem đi dự thi trại thi vẽ tranh quốc tế và được giải nhất. Cô bé mong muốn anh trai đi nhận giải cùng. Đến khi nhìn thấy bức tranh của em gái, người anh đã vô cùng ngạc nhiên và xấu hổ. Cậu không ngờ rằng trong mắt em gái mình lại đẹp như vậy. Chính tình cảm chân thành, trong sáng của Kiều Phương đã giúp nhân vật “tôi” nhận ra sai lầm của bản thân.

Qua nhân vật Kiều Phương, Tạ Duy Anh đã đ ề cao tình yêu thương trong sáng, nhân hậu của con người. Nhân vật Kiều Phương hiện lên dưới ngòi bút của nhà văn đầy chân thực.

Truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa là một truyện ngắn xuất sắc viết về đề tài trẻ em của Thạch Lam. Nổi bật trong truyện là nhân vật Sơn – được nhà văn xây dựng đầy chân thực.

Truyện mở đầu với sự miêu tả tinh tế của nhà văn về sự thay đổi của thời tiết. Từ đó, nhân vật Sơn xuất hiện với những suy nghĩ, hành động hồn nhiên của một đứa trẻ. Cậu tung chăn tỉnh dậy, cậu thấy mọi người trong nhà, mẹ và chị đã trở dậy, ngồi quạt hỏa lò để pha nước chè uống. Mọi người đều “đã mặc áo rét cả rồi”. Ở ngoài sân “Gió vi vu làm bốc lên những màn bụi nhỏ, thổi lăn những cái lá khô lạo xạo. Bầu trời không u ám, toàn một màu trắng đục”. Những cây lan trong chậu “lá rung động và hình như sắt lại vì rét”. Và Sơn cũng thấy lạnh, cậu vơ vội cái chăn trùm lên đầu rồi gọi chị. Mọi người trong gia đình đều đã được mặc áo ấm. Sơn cũng được mẹ mặc cho một chiếc áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh, ngoài lại mặc phủ cái áo vải thâm. Qua cách giới thiệu này, có thể thấy Sơn được sinh ra trong một gia đình khá giá, nhận được tình yêu thương của mọi người xung quanh.

Nhưng không vì thế mà cậu trở nên kiêu ngạo hay xa cách. Sơn là một cậu bé rất giàu tình cảm. Điều đó được thể hiện qua tình cảm với người em gái đã mất. Khi mọi người nhắc đến Duyên – đứa em gái đáng thương của Sơn đã mất năm lên bốn tuổi. Người vú già đã “với lấy cái áo lật đi lật lại ngắm nghía, tay mân mê các đường chỉ”. Sơn cũng cảm thấy “nhớ em, cảm động và thương em quá”. Cậu xúc động khi thấy mẹ “hơi rơm rớm nước mắt”. Hay như cách cư xử của Sơn với bọn trẻ con trong xóm – Thằng Cúc, thằng Xuân, con Tí, con Túc – những đứa trẻ em nghèo khổ vẫn phải mặc những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ. Hai chị em Sơn tỏ ra thân thiết với chúng chứ không khinh khỉnh như các em họ của Sơn.

Đặc biệt nhất là hành động của Sơn đối với bé Hiên. Khi thấy Hiên đang đứng “co ro” bên cột quán, trong gió lạnh chỉ mặc có manh áo “rách tả tơi”, “hở cả lưng và tay”. Sơn cảm thấy thương xót cho con bé. Sơn chợt nhớ ra mẹ cái Hiên rất nghèo, nhớ đến em Duyên ngày trước vẫn cùng chơi với Hiên ở vườn nhà. Một ý nghĩ tốt thoáng qua trong tâm trí Sơn – đó là đem chiếc áo bông cũ của em Duyên cho Hiên. Nghĩ vậy, cậu đã nói với chị gái của mình, nhận được sự đồng tình của chị. Chị Lan đã “hăm hở” chạy về nhà lấy áo. Còn Sơn thì đứng yên lặng đợi chờ, trong lòng tự nhiên thấy “ấm áp vui vui”. Có thể thấy rằng, nhân vật Sơn tuy còn nhỏ tuổi, nhưng đã giàu lòng yêu thương.

Như vậy, nhà văn Thạch Lam đã xây dựng truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” nhẹ nhàng mà thật sâu sắc. Cả tác phẩm thấm thía tình yêu thương giữa con người.

“Thép đã tôi thế đấy” là một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Nikolai A. Ostrovsky – một nhà văn nổi tiếng người Liên Xô. Nhân vật chính của tác phẩm là Pavel Korchagin (thường được gọi là Pavlusha, Pavka).

Pavel Korchagin sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn. Anh chơi thân với một cô bạn gái tên là Tonya, mà sau này trở thành người yêu. Tonya là một cô gái xinh xắn, yêu Pavel với tất cả tình cảm ban đầu trong trắng ngây thơ của một thiếu nữ mới lớn. Tình cảm của hai người có lẽ sẽ rất đẹp và trọn vẹn nếu như không có chuyện Pavel đi theo tiếng gọi của lý tưởng giai cấp lúc đó. Đó là ý tưởng muốn cống hiến sức trẻ của mình phục vụ cho Tổ quốc, cho cách mạng. Tonya rất yêu Pavel nhưng không thể đợi anh, hay đúng hơn là không dám “yêu một lý tưởng”. Đặc biệt là khi gia đình của cô lại thuộc giai cấp tư sản. Pavel từng nói với cô rằng: “Anh trước hết là người của Đảng – sau đó mới là người của em và những người thân khác. Em có gan yêu một công nhân, nhưng lại không có gan yêu một lý tưởng”. Sau cùng, Pavel chia tay Tonya để đi theo lý tưởng của mình.

Trước khi tìm đến ánh sáng của cách mạng, Paven đã có một khoảng thời gian phải tham gia xây dựng con đường sắt nhỏ nối khu rừng với thành phố. Công việc ở đây vô cùng nặng nhọc và vất vả trước thiên nhiên khắc nghiệt. Nếu không kịp thì tất cả mọi người trong thành phố này sẽ chết cóng vì không đủ gỗ để sưởi ấm. Trong hoàn cảnh đó, anh gặp lại Tonya, và cô đã suýt không nhận ra anh vì trông anh đã hoàn toàn khác, rách rưới, tím tái vì giá lạnh, gầy gò như một người ăn xin và đang xúc tuyết, tuy có đôi mắt thì vẫn là Pavlusha ngày nào. Tuy nhiên, cô đã không dám bắt tay anh khi anh đưa tay ra và anh hiểu rằng, tình cảm cũ giữa hai người vĩnh viễn không còn nữa. Cô giờ đây đã có chồng và “sặc mùi băng phiến”.

Sau này, trong quá trình lao động và sinh hoạt trong tổ chức Đảng, Pavel đã gặp Rita và được cô quý mến. Nhưng tình cảm giữa hai người chỉ giữ ở tình đồng chí… Về sau, có lúc Pavel bị bệnh sốt thương hàn và bị bại liệt, phải ngồi xe lăn. Nhưng anh vẫn không lùi bước trước khó khăn, tin tưởng vào tình yêu mới và chuyển sang viết sách vẫn với ngọn lửa và chất thép đã được tôi luyện ngày nào. Paven là một thanh niên giàu lý tưởng, được tôi luyện trong “lò lửa” của cách mạng. Anh đã trở thành tấm gương cho cho thế hệ Việt Nam nói riêng trong giai đoạn đất nước bị xâm lược.

Khi đọc cuốn sách này, nhân vật Paven đã để lại cho tôi những ấn tượng sâu sắc, giúp tôi nhận ra nhiều bài học giá trị.

“Dế Mèn phiêu lưu ký” là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Tô Hoài. Nổi bật trong tác phẩm là nhân vật chính – Dế Mèn hiện lên đầy chân thực, sinh động.

Dế Mèn được xây dựng với nhưng đặc điểm của một nhân vật trong truyện đồng thoại. Dế Mèn vừa mang những đặc điểm của loài dế, lại vừa có những đặc điểm của con người. Trước hết, Tô Hoài đã khắc họa nhân vật này qua những nét ngoại hình. Một chàng dế khỏe mạnh. cường tráng với một đôi càng “mẫm bóng” cùng “những cái móng vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dần và nhọn hoắt”. Nhà văn đã có những câu văn miêu tả: “rung rinh một màu nâu bóng mỡ soi gương được và rất ưa nhìn”. Đầu của Dế Mèn còn “to ra và nổi từng tảng, rất bướng”. Cùng với hai cái răng thì đen nhánh và “lúc nào cũng nhai ngoàm ngoạp như hai lưỡi liềm máy làm việc” và sợi râu “dài và uốn cong một vẻ rất đỗi hùng dũng”. Không chỉ ngoại hình, mà hành động của Dế Mèn cũng cho thấy được sự khỏe mạnh, cường tráng. Với những cái móng vuốt nhọn hoắt của mình, Dế Mèn đã “co cẳng lên đạp phanh phách vào các ngọn cỏ” để muốn thử sự lợi hại của chúng. Rồi “Cứ chốc chốc tôi lại trịnh trọng và khoan thai đưa cả hai chân lên vuốt râu”, “thỉnh thoảng, tôi ngứa chân đá một cái”.

Advertisement

Tiếp đến, nhà văn đã xây dựng tính cách của nhân vật Dế Mèn. Chàng ta mang những nét tính cách của con người: kiêu căng, ngạo mạn và hống hách. Điều đó được thể hiện qua thái độ với nhân vật Dế Choắt. Khi thấy Choắt trông thật gầy gò và ốm yếu. Dế Mèn không những không đồng cảm, mà còn chế giễu bạn của mình. Một lần sang chơi nhà Choắt, Dế Mèn lên tiếng chê bai: “Sao chú mày sinh sống cẩu thả quá như thế. Nhà cửa đâu mà tuềnh toàng…Ôi thôi, chú mày ơi! Chú mày có lớn mà chẳng có khôn..”. Hay khi Choắt bày tỏ ý muốn Dế Mèn đào một cái ngách sang bên nhà của Mèn, để khi có kẻ đến bắt nạt thì giúp đỡ nhau. Nhưng Dế Mèn lại khinh khỉnh: “Hức! Thông ngách sang nhà ta? Dễ nghe nhỉ? Chú mày hôi như cú mèo thế này, ta nào chịu được. Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi. Đào tổ nông thì cho chết!”.

Cái dáng vẻ yếu đuối của Dế Choắt khiến cho Dế Mèn cảm thấy khinh khỉnh, coi thường. Đặc biệt nhất là tình huống dẫn đến cái chết thương tâm cho Choắt. Dế Mèn đã ngông cuồng trêu tức chị Cốc khiến chị ta nổi giận. Dế Choắt yếu ớt bị vạ lây, bị chị Cốc mổ cho đến chết. Cái mỏ của chị Cốc cứ thế giáng xuống thân hình gầy gò của Dế Choắt, đến khi chị đi rồi nó mới dám ra ngoài. Nó nhìn thấy bạn của mình không thể dậy được nữa cùng với những lời trăng trối, Dế Mèn vô cùng đau khổ, ân hận. Nhờ cái chết của Dế Choắt, Dế Mèn đã nhận ra bài học đường đời đầu tiên.

Nhà văn Tô Hoài đã xây dựng hình ảnh nhân vật Dế Mèn trong đoạn trích “Bài học đường đời đầu tiên” nhằm gửi gắm một bài học nhân văn sâu sắc.

Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Nhân Vật A Phủ Trong Tác Phẩm Vợ Chồng A Phủ Dàn Ý &Amp; 20 Bài Văn Phân Tích Nhân Vật A Phủ

Phân tích nhân vật A Phủ hay nhất

Dàn ý phân tích nhân vật A Phủ (2 Mẫu)

Sơ đồ tóm tắt nhân vật A Phủ

Phân tích nhân vật A Phủ

Phân tích nhân vật A Phủ ngắn gọn nhất  (7 Mẫu)

Phân tích nhân vật A Phủ đầy đủ nhất (9 Mẫu)

Dàn ý phân tích nhân vật A Phủ

I. Mở bài:

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

Giới thiệu nhân vật

II. Thân bài:

* Xuất thân của A Phủ

Khốn khó, mồ côi cha mẹ, sống tự do, khỏe mạnh, siêng năng, giàu bản lĩnh, nhưng không kiêu ngạo, là “con trâu tốt” của bản mường nhưng vì nghèo nên không lấy được vợ. Trích câu dân làng nói về A Phủ.

Là con người không bao giờ lùi bước trước cường quyền, bạo chúa. A Phủ biết A Sử là con thống lí nhưng vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây rối.

* Trải qua những ngày tháng đọa đày cùng cực trong nhà Thống Lý

Sau việc đánh con quan làng, A Phủ đã nhận lấy những trận đòn kinh người của nhà Thống Lý, A Phủ dù bị đánh đập nhưng không hề kêu van xin tha đến nửa lời. Anh rất cứng đầu, mạnh bạo và không chịu khuất phục.

Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với công việc: “đốt rừng, cày nương, cuốc mương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây lên tội thì cũng phải chịu phạt

Khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc để người ta trói mình. Đau khổ cùng cực đến nỗi khi Mị nhìn sang thì thấy “một dòng nước lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đem lại”, “thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh”.

* Nổi bật ở A Phủ là một sức phản kháng mãnh liệt:

Điều này thống nhất với bản tính gan góc từ nhỏ: cả nhà chết hết vì bệnh dịch, làng chết và đói nên “người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc ở Hồng Ngài”

Trong đêm tình mùa xuân, trước việc gây chuyện của đám trai làng do A Sử cầm đầu, A Phủ đã gan góc ” vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đập đầu xuống đất, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động này thật dũng cảm, dẫu chỉ là bộc phát. A Phủ thể hiện mình không chịu nhục trước thế lực cường quyền.

Đặc biệt khi được Mị cởi trói, mặc dù rất đau đớn đến “khụy xuống, không bước nổi”, trong người không còn sức lực do phải chịu cực hình, trói đứng và nhịn đói, nhưng anh đã “quật sức vùng lên chạy”; cùng với Mị tự giải thoát khỏi nhà thống lý. Khát vọng, sức sống từ người phụ nữ cùng cảnh ngộ đã thổi bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do nơi người con trai mang bản chất tốt đẹp này.

* Đánh giá

Nếu Mị là kiểu nhân vật tâm lý thì A Phủ lại là nhân vật hành động táo bạo, quyết liệt.

Khi miêu tả A Phủ, nhà văn phối hợp vừa tả vừa kể, nhấn mạnh các chi tiết cụ thể, ấn tượng để khắc họa những đặc điểm, tính cách nhân vật.

Cùng với Mị, A Phủ đã góp phần hoàn thiện chân dung con người miền núi Tây Bắc: Số phận đau thương nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng

Người đọc cũng mong có một kết thúc tốt đẹp đến với A Phủ và Mị. Bởi họ là những con người không chịu khuất phục trước cường quyền gian ác. Nếu chị Dậu trong “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố chạy ra khỏi nhà lý thống trong đêm tối, cái đêm đen cũng đen như cuộc đời của chị, người ta mong chị sẽ gặp được ánh sáng soi rọi của cách mạng, thì ở đây, người đọc cũng mong A Phủ và Mị chạy thoát khỏi nhà lý thống, gặp được ánh sáng của Cách mạng ở cuối đường.

III. Kết bài:

Khi miêu tả nhân vật A Phủ, nhà văn miêu tả qua những hành động khi bị đánh đập, để thấy được sức sống kiên cường của anh. Số phận của nhân vật A Phủ cũng giống như số phận của bao người dân miền núi khác, như Mị. Họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng. Nhưng họ đã đấu tranh để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.

…………………

Sơ đồ tóm tắt nhân vật A Phủ

Phân tích nhân vật A Phủ đạt điểm 9+

Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm tiêu biểu khi nhà văn Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm này rất đặc sắc sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo khán giả đón nhận. Cùng với đó là những nhân vật ở trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đã trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ và mang những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phận.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài mở đầu khi giới thiệu nhân nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về và có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa và cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi và thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên và cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Và từ một hình ảnh đó đã để rồi khi liên kết xâu chuỗi với nhau, nhà văn làm nổi bật được hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mà chính hình ảnh này cũng khiến cho Nhân vật A phủ và Mị có duyên gặp nhau.

A Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh mà thật oái oăm và A Phủ đã xô xát đánh nhau với A Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này thì A Phủ mới bị bắt về bị đánh đập tàn nhẫn. Sau tình huống này nhà văn mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh của A Phủ và chàng là người nghèo khổ, mất hết cả cha lẫn mẹ và sống kiếp mồ côi không ai chăm sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đói đã bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng. Nhưng không cam chịu với số Phận và A Phủ 10 tuổi đã một mình kiếm sống, học hỏi nhiều nghề để phụ trợ cho bản thân. Từ khi còn bé và với số phận chua xót, A Phủ đã biết vượt lên và chống chọi với số phận chứ không để số phận khiến anh có một số phận trớ trêu được . Sức sống tiềm tàng của A Phủ một người đã sớm được bộc lộ và không chỉ khi nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật và hiền lành và chăm chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của nhà văn Tô Hoài là một người có sức khỏe hơn người.

A Phủ còn là một con người có đời sống phóng khoáng và yêu đời và chính nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình mà dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ đã vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí khí.

Hơn vậy là chính vì lối sống phóng khoáng, sức khỏe hơn người nên anh có nhiều người để ý. Nhiều cô gái lấy làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới khắc nghiệt nên ở xã hội phong kiến miền núi đương thời và A Phủ bị người ta khinh thường với một lí do nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới vợ.

Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ đã trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với bản năng của mình thì A Phủ không than, không van xin lấy một lời, A Phủ không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn và mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. “Cứ như thế, suốt chiều nhiều ngày, càng hút, càng tỉnh và càng đánh, càng chửi và càng hút”. Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại về cảnh xử kiện độc đáo ấy và có đến vài lần nhà văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ và ông còn sử dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú pháp để nhấn mạnh những tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với những người dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống trị. Bị phạt vạ và A Phủ thành người ở không công quần quật với hàng nghìni công việc. A Phủ có thể đốt rừng và cày nương, vỡ nương, săn bò tót và bẫy hổ, chăn bò và chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng và có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ đã phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa và áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ đã chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình và có nhà, hơn nữa, anh đã gây nên tội thì cũng phải chịu phạt. Nhưng khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ vồ mất bò và A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng thì anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình lại . Ở trong nhà thống lí Pá Tra và sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường và anh phải thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt trên hõm má đã xám đen lại của anh đã là giọt nước mắt của sự đắng cay và sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng.

Tuy nhiên vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ và nó được nuôi dưỡng từ khi còn bé cơ cực. Anh phải chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh đã gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tội và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai và nhưng đêm đến anh đã cúi xuống nhay đứt hai vòng dây mây và anh tìm cách để tự giải thoát mình. Cùng lúc đó khi được Mị cứu và lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát và đau đớn. Nhưng vì cái chết sẽ có thể đến ngay , anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà thống lí và thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A Phủ đã để cho Mị đi theo và anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả Mị.

Sau khi vượt khỏi nhà thống lí thì A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở đây, anh cũng đã như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do sự áp bức của những bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách mạng, anh nhanh chóng trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du kích dũng cảm và là người tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi A Phủ giác ngộ thì được chân lí cách mạng là một hình ảnh đẹp và không chỉ A Phủ mà là hiện thân cho những con người ở Tây Bắc.

Bằng ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, nhà văn Tô Hoài đã làm nổi bật được hình tượng và khí phách của A Phủ – nhân vật điển hình trong truyện. Cùng là với A Phủ là Mị và dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc và họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.

Phân tích nhân vật A Phủ

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm xuất sắc nhất cũng là tác phẩm đề đời của nhà văn Tô Hoài trong tập “Truyện Tây Bắc”. Và một trong những thành công của truyện là nghệ thuật miêu tả nhân vật A Phủ. Khi miêu tả nhân vật A Phủ nhà văn đã cho thấy tài năng của mình khi bắt đầu kể chuyện từ thời điểm có ý nghĩa trong cuộc đời của A Phủ, để từ đó làm nổi bật lên tính cách của nhân vật. Và trong tác phẩm này, tác giả đã chú ý chọn lựa hai chi tiết tiêu biểu làm nên cá tính của A Phủ: Lần thứ nhất, lúc bị đánh trong cuộc xử kiện: “A Phủ chỉ quỳ, im như tượng đá. Lần thứ hai là lúc được Mị cởi trói: “A Phủ quật sức vùng lên chạy”. Đó là sức mạnh phản kháng ở người nông nô nghèo miền núi.

A Phủ xuất hiện trong tác phẩm đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc, đó là cảnh A Phủ đánh A Sử, con trai thống lí Pá Trá, khi hắn dám phá đám chơi của A Phủ và đám bạn. Ta tưởng đây là nhân vật có quyền thế nhưng không A Phủ cũng giống như Mị, anh là người nông nô nghèo bị gia đình Pá Tra áp bức, bóc lột và trở thành tôi đòi, con ở, nô lệ cho gia đình thống lí.

Tuổi thơ của A Phủ đầy bất hạnh, mới mười tuổi đã phải mồ côi cả cha lẫn mẹ trong dịch bệnh đậu mùa. A Phủ trở thành đứa bé tứ cố vô thân không cha mẹ, không anh em, không có ruộng, không có bạc, đã vậy lại bị người làng xấu bụng bán xuống núi thấp để đối lấy thóc, A Phủ không chịu liền trốn lên núi cao lưu lạc đến Hồng Ngài làm thuê làm mướn. Đến lớn, A Phủ trở thành một chàng trai khỏe mạnh, chăm chỉ cày ruộng cuốc đất. Nhưng dù lớn lên trong cảnh nghiệt ngã, A Phủ vẫn hồn nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống tự nhiên, yêu chính nghĩa. Anh vẫn đem sáo, đem khèn đi tìm người yêu.

Tuy nhiên, đâu chỉ có vậy, số phận nghiệt ngã đã biến A Phủ trở thành nông nô cho nhà thống lí chỉ vì đánh A Sử, người đã phá đám chơi của A Phủ và đám bạn. Trước khi trở thành nông nô cho nhà Pá Tra, A Phủ phải tham gia xử kiện mà không phải lỗi của mình. Anh bị đánh đập dã man, tàn bạo “mặt A Phủ xưng lên môi và đuôi mắt dập chảy máu”. Đến khi trở thành nông nô cho nhà thống lí Pá Tra, anh bị bóc lột sức lao động một cách tàn nhẫn ở ngoài gò ngoài rừng. Đặc biệt phải chịu hành hạ về nỗi đau tinh thần khi bị con ma trình mặt, phải chịu đựng những lời chửi rủa cay độc của mọi người và Pá Tra.

Nhưng một lần nữa, Tô Hoài lại cho thấy niềm tin của ông vào giá trị của con người. Nó không chỉ được thể hiện qua nhân vật Mị mà nó còn được thể hiện qua sức mạnh phản kháng ở nhân vật A Phủ. Điều này được nhà văn Tô Hoài chọn lựa chi tiết trong vụ xử kiện, khi bị bọn trai làng xô đến đánh, “A Phủ chỉ quỳ, im như tượng đá”. Nhiều người đọc đến đây cho rằng A Phủ hèn nhát, nhưng không, nếu hèn nhát thì sao A Phủ dám đánh A Sử có nạm vòng bạc ở cổ rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ mà chỉ riêng con cái nhà quan trong làng mới được đeo, ngược lại phải chăng hình ảnh “im như tượng đá” chính là một hành động của sự phản kháng, đó là biểu hiện bất tuân, nén nỗi căm giận vào trong lòng, không nói, không thanh minh đó chính là sức mạnh phản kháng tiềm ẩn bên trong con người nhân vật này.

Chính cá tính gan góc, mạnh mẽ đó của A Phủ đã tạo nên những con sóng ngầm ngày một mạnh mẽ bên trong anh. Khi hoàn cảnh càng trở nên nghiệt ngã, đau khổ thì sức phản kháng lại càng mạnh mẽ. Nó được thổi bùng trong lần miêu tả thứ hai về A Phủ của nhà văn Tô Hoài. Sự kiện bắt đầu khi A Phủ vô tình để hồ vồ mất bò do mải bẫy nhím, bị cha con thống lí Pá Tra phát hiện và bắt đứng trói vào cột không cho ăn, không cho uống. Nhưng nhờ sự đồng cảm, tình thương người của Mị, cô đã cởi trói cứu giúp A Phủ. Và trong hoàn cảnh giữa ranh giới của sự sống và cái chết, một lần nữa tinh thần phản kháng ấy lại trỗi dậy và được tài năng Tô Hoài thể hiện “A Phủ bỗng ngã khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay. A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy”. Hành động của A Phủ có lẽ lúc đầu chỉ là ý nghĩ chạy trốn khỏi cái chết nhưng sau đó nó đã trở thành hành động đến với con đường giải phóng. Từ việc tìm đường đến nhận đường chính là ý thức làm người, là tinh thần phản kháng, là khát khao sống, khát khao được tự do và đó cũng chính là cơ hội tốt để sau này A Phủ làm du kích cống hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp Cách mạng.

Có thể nói, nghệ thuật miêu tả nhân vật A Phủ đầy sắc sảo của Tô Hoài đã tạo nên một hình tượng nhân vật đầy nam tính. Khát vọng tự do công bằng được biểu hiện ở A Phủ âm thầm, mạnh mẽ, hồn nhiên và cũng thật đơn giản. Tính cách của A Phủ mang phẩm chất tiêu biểu của người đàn ông chân chính dân tộc Mông.

Hai lần miêu tả A Phủ ở hai thời điểm khác nhau có ý kiến trái chiều cho rằng lần miêu tả thứ nhất A Phủ đã cam chịu, cam phận đến lần thứ hai thì đó mới là sức mạnh phản kháng thật sự. Điều này không sai, bởi lẽ A Phủ để mặc cho họ đánh vì sức của A Phủ không thể địch lại với sức của hàng trăm người ở đó, nó là sức cường quyền áp bức lên một người nông nô nghèo thân cô thế cô và hơn nữa ở lâu trong cái khổ thì cũng quen khổ rồi, ở cái đất Hồng Ngài dưới ách thống trị của nhà thống lí Pá Tra thì đâu cũng vậy thôi. Đó cũng chính là sự cam chịu của người nông nô vùng núi cao khi chưa có ánh sáng của Đảng, chưa có sự giác ngộ, chưa biết đoàn kết tạo nên sức mạnh chống lại cường. Và chính lần miêu tả thứ hai khi A Phủ quật sức chạy, nó không chỉ thể hiện tinh thần phản kháng mạnh mẽ ở anh mà hành động quật sức chạy đó phải chăng là cơ hội để A Phủ chạy gần đến bên Cách mạng, được giác ngộ để làm du kích sau này. Từ đây, ta có thể thấy được tài năng am hiểu nội tâm con người của Tô Hoài, ông thật sự là một cây bút già dặn khi nhìn thấy hai mặt đối lập ở một con người A Phủ vừa cam chịu số phận nhưng cũng vừa mạnh mẽ, can trường, bất khuất. Đó cũng chính là niềm tin bất diệt của nhà văn vào tâm hồn, sức sống, sự phản kháng quyết liệt ở con người trên đường đi tìm hạnh phúc, tìm lại chính mình.

Như vậy qua nghệ thuật miêu tả cuộc đời, tính cách của nhân vật A Phủ, Tô Hoài đã tố giác giai cấp thống trị miền núi đại diện là cha con nhà thống lí Pá Tra đã đẩy con người hiền lành chất phác như A Phủ vào cảnh bị cướp đoạt sức lao động, cướp đoạt quyền làm người. Viết về điều đó, nhà văn đã cảm thông với những khổ đau, bất hạnh của họ đồng tình với sự phản kháng quyết liệt để mở ra một lối thoát cho những người nghèo lao động miền núi. Qua đây, một lần nữa thể hiện tài năng nắm bắt cá tính con người và tấm lòng nhân đạo vô bờ bến của nhà văn Tô Hoài.

Phân tích nhân vật A Phủ ngắn gọn nhất Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 1

“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của một chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Tô Hoài. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét nhất cuộc sống và những số phận bất hạnh của những người nông dân nghèo dưới ách áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến. Nhưng nổi bật hơn nữa chính là khát vọng, là nghị lực sống mãnh liệt của họ. A Phủ là nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm về sự vượt lên chính mình. Tô Hoài đã rất thành công khi khắc họa nhân vật này.

A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại khiến người đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. A Phủ với những tính cách, phẩm chất vừa khiến người ta xót thương vừa khiến người ta ngưỡng mộ hơn.

Tô Hoài đã để cho A Phủ xuất hiện trong lần cọ xát, đánh nhau với A Sử, sau đó bị bắt và bị đánh đập dã man. Tiếp theo đó tác giả ngược dòng kể về hoàn cảnh của A Phủ. A Phủ phải chịu đựng sự cơ cực, vất vả những năm tháng ấu thơ. Trận dịch đậu mùa khi A Phủ mười tuổi đã cướp đi gia đình, bố mẹ, anh chị em. Để lại một mình A Phủ bơ vơ, cù bất cù bơ. Tình cảnh ấy thật khiến người đọc xúc động. Đáng buồn hơn nữa có người đã đem A Phủ đi bán đổi lấy thóc. Nhưng tính cách gan góc, ngang bướng của A Phủ thì nó không thể trói buộc được anh. A Phủ đã trốn lên Hồng Ngài, làm thuê làm mướn từ mùa này sang mùa khác. Sự cơ cực ấy đã được rèn luyện suốt bao nhiêu năm, A Phủ thành một chàng thanh niên gan dạ, dũng cảm đương đầu với số phận. Đây chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau của cuộc đời A Phủ.

Từ khi trưởng thành, A Phủ đã chứng tỏ mình là một người gan góc, liều lĩnh, không chịu khuất phục, luôn chiến đấu với bản thân để vươn đến những điều tốt đẹp nhất “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Chính nghị lực và sức khỏe của A Phủ đã khiến cho nhiều người yêu mến anh. Dù nghèo đói, cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc quan, tự tin vào tương lai phía trước. Vào những ngày Tết, “ A phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong vùng”. Chính điều này đã tạo nên ấn tượng cho nhiều cô gái.

Nhưng A Phủ lại là người không cha không mẹ, không tiền không bạc, không ruộng nương thì lấy vợ là chuyện quá xa xôi. Một người đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc nhưng cuối cùng vẫn cô độc như thế.

Có lẽ hình ảnh A Phủ đánh A Sử khiến người đọc vừa dồn dập, vừa thương cảm cho con người này “A Phủ chạy vụt ra, vung tay ném con quay to vào mặt A Sử. A Sử vừa kịp vung tay lên, A Phủ đã xông tới, nắm cái vòng cổ dập đầu xuống áo đánh tới tấp”. Hành động này vừa chứng tỏ A Phủ rất khỏe mạnh, vừa không hề sợ bọn địa chủ phong kiến tàn bạo. Nhưng đây cũng chính là nguyên cớ tạo nên mối thù sâu sắc giữa người nông dân nghèo và tầng lớp địa chủ, quý tộc. A Phủ đã bị thống lý Pá Tra đánh đập dã man, tàn bạo từ trưa đến đêm.Có thể nói nhà thống lý chính là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều hủ tục, sự phân biệt giai cấp nặng nề, coi thường những người nông dân thấp cổ bé họng. Chúng coi A Phủ như một con vật, không hơn không kém. Bộ dạng A Phủ lúc đó thật thảm hại và đáng thương “A Phủ chỉ im lặng như tượng phật”. Sự im lặng đó chính là sự căm phẫn, uất ức đến tột độ nhưng cũng không thể làm điều gì hết.

Chỉ vì hành động đó mà A Phủ đã phải làm nô lệ suốt đời cho nhà thống lý. Xã hội bây giờ dường như chỉ tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống dưới đáy của xã hội mới hả hê, mới yên long.

Đến đây chúng ta lại liên tưởng đến nhân vật Mị, có lẽ A Phủ cũng như Mị, sống lay lắt héo hon trong ngôi nhà đầy oán hận này.

Cuộc đời của A Phủ cũng giống như Mị, từ đây sống hay chết cũng đều phó mặc cho nhà thống lý. A Phủ không có quyền lựa chọn cho mình con đường đi, không được chọn hạnh phúc cho mình. Suốt một đời này phải làm trâu làm ngựa cho nhà thống lý. Một sự thật nghiệt ngã đến đau long. Tô Hoài đã khiến người đọc không khỏi xúc động. Bằng ngôn ngữ đặc tả, tác giả đã tạo nên sự riêng biệt của A Phủ.

Bi kịch này nối tiếp bi kịch khác, chỉ vì để hổ vồ mất bò mà thống lý đã bắt trói A Phủ và đánh đập dã man. Sự đau khổ và tuyệt vọng in hằn trong đôi mắt ấy, đôi mắt ám ảnh người đọc đến tận tâm can. Cái chết hiển hiển trong tâm trí A Phủ và A Phủ ý thức rất rõ được điều này.

Có lẽ chính vì ý thức này đã làm nên sự vượt phá ở cuối tác phẩm khi Mị quyết định cởi trói và bỏ trốn cùng A Phủ. Có lẽ đây là đoạn văn khiến cho người đọc vừa hồi hộp, vừa xót xa vừa khâm phục.Con người ta khi bị bóc lột quá sức sẽ vùng lên đấu tranh để đi tìm con đường riêng. A Phủ thực sự đã làm được. Thoát khỏi nhà thống lý, A Phủ sẽ thành một người công dân có ích cho đất nước, đi theo tiếng gọi của cách mạng.

Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng nhân vật A Phủ, hình tượng điển hình của người nông dân trong xã hội phong kiến bị áp bức nhưng lại có khát khao sống mãnh liệt.

Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 2

Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm tiêu biểu khi tác giả Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm đặc sắc này sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo khán giả đón nhận. Cùng với đó, những nhân vật ở trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đã trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ, mang những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phận.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mở đầu khi giới thiệu nhân nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Và từ một hình ảnh đó, để rồi khi liên kết xâu chuỗi với nhau, tác giả làm nổi bật được hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mà chính hình ảnh này cũng khiến cho Nhân vật A phủ và Mị có duyên gặp nhau.

A Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh mà thật oái oăm, A Phủ đã xô xát đánh nhau với A Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này, A Phủ bị bắt về bị đánh đập tàn nhẫn. Sau tình huống này tác giả mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh của A Phủ, chàng là người nghèo khổ, mất hết cả cha lẫn mẹ, sống kiếp mồ côi không ai chăm sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đói đã bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng. Nhưng không cam chịu với số Phận, A Phủ 10 tuổi đã một mình kiếm sống, học hỏi nhiều nghề để phụ trợ cho bản thân. Từ khi còn bé, với số phận chua xót, A Phủ đã biết vượt lên và chống chọi với số phận chứ không để số phận khiến anh có một số phận trớ trêu. Sức sống tiềm tàng của một người đã sớm được bộc lộ, không chỉ khi nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật, hiền lành và chăm chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của Tô Hoài là một người có sức khỏe hơn người.

A Phủ còn là một con người có đời sống phóng khoáng, yêu đời và chính nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí khí.

Hơn vậy, chính vì lối sống phóng khoáng, sức khỏe hơn người nên anh có nhiều người để ý. Nhiều cô gái lấy làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới khắc nghiệt ở xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ bị người ta khinh thường và một lí do nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới vợ.

Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với bản năng của mình, A Phủ không than, không van xin lấy một lời, A Phủ không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn, mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại cảnh xử kiện độc đáo ấy, có đến vài lần nhà văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ, ông còn sử dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú pháp để nhấn mạnh tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với người dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống trị. Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với hàng núi công việc. A Phủ có thể đốt rừng, cày nương, vỡ nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây nên tội thì cũng phải chịu phạt. Nhưng khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình. Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường, anh phải thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt trên hõm má đã xám đen lại của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng.

Tuy vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ,nó được nuôi dưỡng từ khi còn bé cơ cực. Anh chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tội và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai nhưng đêm đến anh đã cúi xuống nhay đứt hai vòng dây mây, anh tìm cách để tự giải thoát mình. Cùng lúc đó khi được Mị cứu, lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát, đau đớn. Nhưng vì cái chết sẽ có thể đến ngay, anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà thống lí, thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A Phủ để cho Mị đi theo, anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả Mị.

Sau khi vượt khỏi nhà thống lí, A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở đây, anh cũng như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do sự áp bức của bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách mạng, anh nhanh chóng trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du kích dũng cảm, là người tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi A Phủ giác ngộ được chân lí cách mạng là một hình ảnh đẹp, không chỉ A Phủ mà là hiện thân cho những con người ở Tây Bắc.

Bằng ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, Tô Hoài đã làm nổi bật được hình tượng và khí phách của A Phủ – nhân vật điển hình trong truyện. Cùng với A Phủ là Mị, dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.

Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 3

Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình lay động lòng người. Ông đã viết thành công tác phẩm Truyện Tây Bắc, trong đó có truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để giành lấy tình yêu, hạnh phúc. Tiêu biểu cho những con người ấy là A Phủ, một trong những nhân vật thành công nhất của Tô Hoài trong tác phẩm này

Năm 1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi thực tế này đã đem đến cho nhà văn cái nhìn sâu sắc và tình cảm thắm thiết với người và cảnh Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập “Truyện Tây Bắc”.

Tác giả cho A Phủ xuất hiện đột ngột trong trận đánh nhau với A Sử con trai thống lí, rồi bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ phải ở trừ nợ. Sau đó mới kể lai lịch của A Phủ. Cách giới thiệu này vừa gây chú ý cho người đọc vừa nhấn mạnh tính cách mạnh mẽ của A Phủ.

Từ bé, A Phủ đã mồ côi cha mẹ, không còn người thân thích trên đời, bị người làng bắt đem bán cho người Thái ở vùng thấp. Mới mười tuổi, A Phủ đã gan bướng, không thích ở cánh đồng thấp, trốn lên núi, lưu lạc tới Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh “chạy nhanh như ngựa”, “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại giỏi cày và săn bò tót rất bạo”. Con gái trong làng nhiều người mê, họ kháo nhau “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Người ta đùa vậy thôi chứ A Phủ nghèo lắm. Không có cha mẹ, không có ruộng nương, không có bạc, suốt đời làm thuê, làm sao A Phủ lấy nổi vợ. Nếu ở xã hội khác, A Phủ xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Thế mà A Phủ bị chà đạp, bị đối xử bất công. Nếu không được Mị giải thoát, chắc A Phủ đã chết trong tay cha con thống lí Pá Tra.

Cá tính gan góc của A Phủ đã bộc lộ từ năm 10 tuổi. Cá tính ấy lại được chính cuộc sống hoang dã núi rừng cùng hoàn cảnh ở đợ làm thuê vất vả cực nhọc hun đúc nên một A Phủ có cá tính mạnh mẽ, táo bạo. Vừa xuất hiện, A Phủ đã lôi cuốn người đọc bằng những hành động mạnh mẽ, dữ dội: “chạy vụt ra”, “vung tay ném”, “xộc tới nắm” “kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp…”. A Phủ là một người thẳng thắn, nóng tính, thật thà, chất phác. A Phủ đánh A Sử để trừng trị thói con quan ỷ thế làm càn. Anh bị người nhà thống lí bắt, đánh suốt đêm đến mức “mặt A Phủ sung lên, môi và đuôi mắt chảy máu”, “hai đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù”. Dù vậy, A Phủ “chỉ im như cái tượng đá” thể hiện sự gan góc, dám làm dám chịu. Khi đã phải sống thân phận của kẻ làm công trừ nợ, anh vẫn là chàng trai của tự do. Dù phải quanh năm một mình “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa…”, việc gì A Phủ cũng làm phăng phăng chẳng hề tính toán thiệt hơn.

Vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất một con bò, A Phủ thật thà vác về nửa con bò hổ ăn dở và thản nhiên nói với thống lí “cho tôi mượn cây súng. Tôi đi lấy con hổ về”. Anh coi đó là một việc rất dễ dàng. Thống lí không cho, anh cãi lại cũng rất điềm nhiên. Anh không biết sợ cái uy của bất kỳ ai. Con hổ hay thống lí cũng thế thôi. Kể cả khi lặng lẽ đi lấy cọc và dây mây rồi đóng cọc để người ta trói đứng mình chết thế mạng cho con vật bị mất, A Phủ cũng làm việc ấy một cách thản nhiên. Là người mạnh mẽ, gan góc, A Phủ không sợ cả cái chết.

Bị trói đứng, đói, khát trong cái lạnh cắt da, A Phủ không cam chịu, anh nhai đứt hai vòng dây trói, song không thoát. A Phủ khóc tuyệt vọng. Nước mắt của chàng trai mạnh mẽ, yêu tự do phải cay đắng buông tay trước số phận nghiệt ngã làm rung động trái tim người đọc. Ta càng thấy rõ hơn bộ mặt tàn bạo của chế độ phong kiến, chúa đất ở miền núi khi xưa.

Nhân vật A Phủ đã được khắc họa thành công, sở trường quan sát nhạy bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố giúp nhà văn dựng được một hình tượng đặc sắc chỉ bằng mấy nét đơn sơ. Thông qua nhân vật A Phủ, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm càng đậm nét.

Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 4

Tôi đã từng đọc ở đâu đó “Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của người nghệ sĩ dành cho con người mà hạt nhân căn bản là lòng yêu thương con người”. Và tôi biết một người nghệ sĩ như thế – một nhà văn viết về Tây Bắc bằng cả tấm lòng của mình, cả niềm thương nỗi nhớ luôn thường trực trong trái tim – Tô Hoài! Trong số những thành công của ông, không thể không nhắc đến “Vợ chồng A Phủ”- truyện ngắn mang giá trị sâu sắc, đặc biệt là hình ảnh nhân vật A Phủ.

Nếu hôm nay ta có “thấy Nguyễn Nhật Ánh trong tuổi thơ” thì Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài là quyển sách gối đầu của hàng triệu thiếu niên Việt Nam. Tô Hoài – nhà văn có lối viết rất riêng: đậm đà bản sắc dân tộc với những sáng tác thiên về sự thật đời thường. Ông có quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh độc đáo có phần quyết liệt “viết văn là quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Trong chuyến đi thực tế dài tám tháng tại Tây Bắc với đồng bào các dân tộc thiểu số cùng ăn, cùng ở, cùng chung sống… Chính cuộc sống ấy đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo để nhà văn hoàn thành tập Truyện Tây Bắc

A Phủ là nhân vật được tác giả cho xuất hiện khá đột ngột trong cuộc đánh nhau của thanh niên làng bên với A Sử rồi mới kể về lai lịch của nhân vật. Nhà văn để nhân vật đi vào trang văn bất ngờ, tự nhiên và đầy ấn tượng. A Phủ quê ở Háng-bla và tuổi thơ đã phải gánh chịu một tai họa khủng khiếp cướp đi cả gia đình anh. A Phủ gan dạ, vừa ngang bướng đã trốn lên núi khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, ngày qua ngày, mùa qua mùa, A Phủ trưởng thành với biết bao những phẩm chất tốt đẹp của người lao động miền núi “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”, “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”.

Một mình bươn trải, A Phủ đủ mạnh mẽ, gan góc, sống tự do phóng khoáng thì kết thúc bị trói buộc cả cuộc đời tại nhà thống lí. Chính sách áp bức của chúa đất đã đẩy người lao động phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời. Cảnh xử kiện A Phủ là minh chứng rõ ràng nhất về cách áp chế kiểu trung cổ ở miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt “tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp” và “Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kẻ, chửi, lại hút”, cứ thế suốt từ trưa cho đến hết đêm. Riêng A Phủ chỉ âm thầm chịu đựng, nuốt đắng cay mà chịu đòn đầy đau đớn.

Cảnh Pá Tra trói đứng A Phủ như một tình cảnh bị trói chờ chết như năm nào mà cô Mị đã phải chịu. Mị không lấy làm lạ. Bởi Mị đã quá quen với những tội ác thế này và Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực mà thôi. Nhưng đến một đêm, khi Mị trở dậy thổi lửa sưởi rồi lé mắt trông sang, thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Chính dòng nước mắt đau đớn đã làm sống dậy ý thức và tình cảm của Mị. Ký ức sống dậy, Mị nhớ lại những nỗi đau đớn khi bị trói đứng vào cột, nhớ đến một người đàn bà khác đã từng bị trói đến chết. Tình thương người còn lớn ngàn lần nỗi sợ hãi. Nó tiếp thêm sức mạnh và bản lĩnh để Mị hành động cứu A Phủ. Và Mị đã tự cắt sợi dây trói buộc đời mình với nhà Pá Tra và chạy theo A Phủ. Mặc dù đây chỉ là những hành động đấu tranh tự phát, nhưng cũng chính từ những khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ ấy thôi thúc họ phải đấu tranh để sống và được sống.

Nguyễn Minh Châu từng viết “Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn của con người”. Với Tô Hoài, ông không chỉ tìm kiếm, phát hiện mà còn khơi nguồn vực dậy trong tâm hồn Mị sức sống, khao khát sống tưởng như đã bị héo mòn, bị chôn vùi bởi những thế lực tàn bạo. Qua đó nhà văn khéo léo gửi quan niệm về cuộc sống của bản thân vào nhân vật của mình rằng: Con người lao động, trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ luôn giữ bản lĩnh và sẵn sàng đấu tranh cho chính hạnh phúc của bản thân mình.

……………….

Phân tích nhân vật A Phủ đầy đủ nhất Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 1

Những câu thơ của Chế Lan Viên gợi nhắc cho bạn đọc về một vùng đất Tây Bắc với nhiều hoang sơ, bí ẩn. Khám phá Tây Bắc đâu chỉ có những hồn thơ của Chế Lan Viên. Ta còn từng bắt gặp Tô Hoài với riêng một tập truyện viết về phong tục về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Trong đó truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện ngắn tiêu biểu nhất của tập truyện Tây Bắc. Truyện ngắn thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật và A Phủ là nhân vật tiêu biểu trong toàn bộ câu chuyện.

Tô Hoài là một nhà văn lớn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt đến kỷ lục. Hầu hết sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả sự thật của đời thường với trần thuật hóm hỉnh, sinh động hấp dẫn. Sáng tác của ông thể hiện sự am hiểu sâu sắc về cuộc sống con người phong tục cũng như sinh hoạt của người dân Tây Bắc.

Vợ chồng A Phủ được trích từ tập truyện Tây Bắc sau chuyến đi thực tế của Tô Hoài năm 1952 trong một lần lên Tây Bắc. Truyện hướng tới phản ánh số phận của những người lao động miền núi Tây Bắc, đi từ số phận khổ đau đến cuộc đời mới tự do.

A Phủ là chàng trai người H’mông nghèo khổ bất hạnh. Mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ, bị người làng đem bắt bán cho người Thái ở dưới thấp, sau đó A Phủ trốn ngược về vùng cao và sống lưu lạc khắp vùng Hồng Ngài, đi ở cho hết nhà này đến nhà kia. Đến tuổi trưởng thành, A Phủ vẫn nghèo, chỉ có hai bàn tay trắng nên không lấy nổi vợ.

Nhưng A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, cường tráng, cần cù, dũng cảm và tài ba: đốt rừng, làm nương, cuốc nương, chăn bò, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình tăng và biết đục cuốc. Đặc biệt, A Phủ luôn khao khát cuộc sống tự do phóng khoáng. Ngay từ khi mới lên mười, cậu bé A Phủ đã không chịu sống cùng người Thái dưới chân núi mà muốn trở lại vùng cao, chấp nhận cuộc sống nơi nay đây mai đó nhưng được là con chim của núi rừng tự do.

Từ một chàng trai tràn đầy sinh lực, bản tính mạnh mẽ, kiên cường luôn khao khát cuộc sống tự do, phóng khoáng. A Phủ bị giai cấp thống trị tàn bạo cột chặt vào kiếp đời nô lệ đau đớn tủi nhục. Nhưng nếu như nỗi khổ của Mị triền miên, dai dẳng, thầm lặng thì nỗi khổ của A Phủ được miêu tả tập trung qua hai cảnh đó là cảnh sự kiện phạt và và cảnh A Phủ bị trói đứng vì làm mất bò.

Cảnh sự kiện phạt vạ diễn ra chỉ vì A Phủ đã dám đánh lại con quan chính là A Sử rồi khiến cho A Phủ bị bắt về nhà thống lý chịu kiện. Một phiên tòa đặc biệt lạ lùng và tàn bạo đến mức chưa từng có. Công đường là nhà thống lí, quan tòa lại chính là thống lí Pá Tra. Thành phần tham gia xét xử đông đảo với đầy đủ chức sắc trong vùng, trịnh trọng trang nghiêm, chỉ có nằm hút thuốc phiện và ăn cỗ.

Nhân trứng lại là đám trai làng- những công cụ của thống lý. Còn bị cáo A Phủ thì không được trình bày, không được nghe luận tội mà chỉ luôn quỳ im mà chịu đòn. không khí phiên tòa diễn ra đầy nhốn nháo, náo loạn của tiếng kể, chửi bới, đấm đá và tiếng rít thuốc phiện, khói thuốc phiện ngào ngạt tuồn qua các ô cửa. Kết thúc xử kiện, A Phủ phải chịu một số tiền phạt và khổng lồ và phi lý.

Ngoài tiền cho người bị đánh, cũng phải trả toàn bộ tiền cho các quan, cho người đi gọi các quan về, toàn bộ số tiền hút thuốc phiện từ hôm qua đến hôm sau và cả một con lợn cho làng ăn cỗ. Tất cả lên tới một trăm đồng bạc trắng và Pá Tra thừa biết A Phủ không thể nào có tiền trả cho nên hắn đã cho A Phủ vay nợ, suốt đời làm trâu làm ngựa trả nợ cho hắn: đời mày, đời con, đời cháu mày bao giờ hết nợ tao mới thôi”.

Advertisement

Để sợi dây trói buộc thêm chắc chắn khi thì Pá Tra gọi con ma về nhận mặt người vay nợ rồi toàn bộ số bạc cho A Phủ vay lại hoàn nguyên vào túi của thống lý. Cuộc sống nô lệ tủi nhục của A Phủ bắt đầu từ giây phút ấy. Đau đớn, chân bước đi tập tễnh, A Phủ phải cầm dao đi giết lợn làm cỗ cho những kẻ vừa đánh đập chửi bới phạt vạ mình.

Và từ một chàng trai khỏe mạnh, dũng cảm, khao khát cuộc sống tự do, A Phủ đã phải sống một kiếp đời như trâu ngựa cùng với đàn trâu đàn ngựa nhà thống lý. Qua cách sự kiện phạt vạ, nhà văn Tô Hoài đã tố cáo bản chất tham lam, độc ác của giai cấp thống trị miền núi. Chúng đã dùng mọi thủ đoạn thâm độc để áp mức cột chặt những con người lao động tự do vào kiếp đời nô lệ để bóc lột họ đến kiệt cùng.

Chỉ vì sơ ý làm mất một con bò nhà thống lý mà A Phủ phải chịu một hình phạt thật thảm khốc. Nỗi khổ nhục của A Phủ trước hết là tự tay đào lỗ chôn cột, lấy dây mây để cho người khác trói mình. A Sử đã trói A Phủ một cách tàn nhẫn: trói đứng A Phủ bằng một cuộn dây mây đến khi thống lý vào lại thòng thêm hai thòng lòng vào cổ làm cho A Phủ không cựa quậy được rồi bỏ mặc A Phủ trong đau đớn, đói rét cho tới chết để đền mạng cho con bò của gia đình thống lý.

Qua đó, ta thêm hiểu về tội ác dã man tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi Chúng coi sinh mạng của con người không bằng con vật và càng hiểu thêm nỗi thống khổ con người lao động khi bị đẩy vào kiếp đời nô lệ. Họ đã bị tước đoạt hoàn toàn quyền sống, quyền làm người.

Khi còn là một cậu bé lên mười, A Phủ chấp nhận sống nghèo khổ đi ở cho hết nhà này đến nhà khác để sống tự do và khi chứng kiến A Sử quấy rối phá đám cuộc chơi, A Phủ đã đánh hắn dù biết rằng đó là con quan. Trong cảnh xử kiện tàn bạo của thống lí Pá Tra, A Phủ không khóc, không kêu rên mà chỉ quỳ yên như cái tượng đá để chịu đòn.

Trước thế lực cường quyền ghê gớm, A Phủ đã bất lực phải chịu đựng nhưng ẩn trong thái độ đó là sự thách thức sự phản kháng ngầm. Trong đêm A Phủ bị trói đứng, chàng trai ấy đã nhay đứt mấy vòng dây mây để tự giải thoát cho mình. Chỉ khi bị cho thêm hai thòng lọng vào cổ, A Phủ mới bất lực.

Sức mạnh của tinh thần phản kháng và lòng khao khát rõ nhất khi A Phủ được Mị cởi trói. A Phủ đã ngã quỵ xuống vì kiệt sức nhưng sau đó A Phủ đã quật tức vùng lên chạy khỏi nhà thống lí. Có lẽ lòng khao khát được sống, được tự do và tinh thần phản kháng ở chàng trai nô lệ ấy đã tạo nên nguồn sức mạnh vô biên khiến cho A Phủ không chỉ được cứu mình mà còn cứu được Mị chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra, để được sống tự do chấm dứt kiếp đời nô lệ.

Tô Hoài đã xây dựng nhân vật A Phủ bằng bút pháp điển hình hóa, vừa cụ thể vừa khái quát. Cả A Phủ và Mị đều có những phẩm chất số phận tương đồng nhưng cách khắc họa nhân vật của nhà văn đã có những thay đổi và sáng tạo để phù hợp với con người hiện thực. A Phủ là được khắc họa qua ngôn ngữ và hành động. Những biểu hiện, lời nói và hành động của A Phủ thường ngắn gọn, dứt khoát quyết liệt rất phù hợp với tính cách và góp phần thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.

Khép lại trang viết về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ với hình ảnh của A Phủ và Mị đã để lại trong người đọc nhiều suy nghĩ. Nhà văn đã rất thành công khi tái hiện được hình ảnh của A Phủ và Mị với những sức sống với sức mạnh phản kháng vươn lên mạnh mẽ bất chấp hoàn cảnh. Tác phẩm sẽ sống mãi cùng với thời gian và đồng hành cùng bạn đọc các thế hệ.

Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 2

Cuộc sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo để Tô Hoài hình thành Truyện Tây Bắc trong đó có Vợ chồng A Phủ. Vợ Chồng A Phủ đã đặt ra vấn đề về số phận con người, những con người bị bóc lột cả về thể xác lẫn tâm hồn. Một trong những số phận đầy bất hạnh đó chính là nhân vật A Phủ.

A Phủ có một cuộc đời đầy khổ đau tủi nhục. Ngay từ nhỏ, A Phủ đểu mồ côi cha mẹ. Năm đó, làng Háng -Bla phải một trận bệnh đậu mùa. Anh của A Phủ, em A Phủ chết, bố mẹ A Phủ cũng chết. Chỉ còn sót lại có một mình A Phủ. Cuộc đời A Phủ từ đó bơ vơ vất vưởng.

Cũng chỉ vì cái đói, vì miếng ăn mà A Phủ bị người ta bắt đem đổi lấy thóc. Có một người trong làng vì đói quá đã nhẫn tâm bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy cắp của người Thái dưới cánh đồng. Nhưng với bản tính ngang bướng, A Phủ tìm cách trốn lên núi và lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ đó A Phủ sống một cuộc sống phiêu bạt. Cuộc đời anh không nhà cửa, không ruộng nương, phải đi làm thuê hết nhà này đến nhà khác.

Năm tháng qua đi, chẳng bao lâu A Phủ đã biết hết các công việc. Cuộc sống đã rèn luyện A Phủ thành một con người vững chãi. A Phủ biết đúc lưỡi cày, lưỡi cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo. A Phủ lại rất khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê. Có người còn khen rằng: “đứa nào được A Phủ cũng bằng con trâu tốt trong làng”.

Tuy nghèo khó, khổ cực nhưng A Phủ cũng sống đầy khát khao. Ngày Tết đến, A Phủ chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng vía lằn trên cổ, A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, con quay và quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các làng trong vùng. Anh ung dung tự tại giữa cuộc sống đầy khắc nghiệt chốn Hồng Ngài.

Thế nhưng, vận rủi đã đến với anh và chuyển hướng cuộc đời anh đến chỗ thảm khốc. Vì xích mích với đám trai làng trong lúc đi chơi, A Phủ đã đánh A Sử, con trai thống lí Pá Tra đến chảy máu. Hành động bột phát ấy đã mang tai họa đến với A Phủ. Anh bị đám trai làng bắt trói và đưa về nhà thống lí để chịu tội.

Từ một thanh niên tự do bỗng dưng A Phủ trở thành nô lệ. Cuộc đời nhân vật A Phủ là điển hình của cảnh áp bức bóc lột ở chốn Hồng Ngài. Bọn thống trị dựa vào đầu óc mê tín của người dân, lợi dụng cường quyền và thần quyền để áp bức, bóc lột sức lao động của họ.

Qua cảnh sử kiện tại nhà thống lý, Tô Hoài đã cho người đọc thấy được bộ mặt dã man tàn bạo của bọn thống trị miền núi. Bọn thống trị bằng sức mạnh của mình đã chà đạp lên quyền sống của con người, tước đoạt ở họ quyền làm người tự do. Không những thế, chúng còn hành hạ thân xác con người tàn tệ như đối xử với thú vật.

A Phủ bị bắt khiêng về ném xuống nhà như một con vật. Thế rồi suốt từ trưa đến chiều, thâu đêm đến sáng hôm sau, bọn chức dịch lợi dụng việc sự kiện kéo đến ăn cỗ và thi nhau hút thuốc phiện. Còn A Phủ suốt đêm đó phải quỳ giữa nhà chịu đòn. Cứ sau một đợt hút thuốc phiện lại một lần A Phủ bị đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. A Phủ đau lắm nhưng không biết kêu ai. Anh chỉ có một mình, còn bọn chúng thì quá đông. Anh là kẻ có tội, còn bọn chúng dựa vào cả cường quyền, lẫn thần quyền để khuất phục, chế ngự và hành hạ anh. Mọi người biết nhưng không ai nói gì, làm gì. Vì họ cũng tin vào thứ cường quyền và thần quyền ấy.

Cuối cùng A Phủ bị phạt vạ một trăm đồng bạc trắng. A Phủ không có tiền nộp nên phải ở làm kẻ lao động trừ nợ cho nhà thống lí. bản án ấy được khẳng định qua lời của tên thống lí: “bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở lại làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.

Đau đớn hơn đó là khi A Phủ phải đứng lên cầm con dao, ra chọc tiết, làm thịt lợn để làm cỗ hầu chính những kẻ đã biết anh thành nô lệ. Như vậy, sống trong hoàn cảnh mà mọi quyền lực đều nằm trong tay giai cấp thống trị, số phận của những người dân nghèo thật bi thảm. Họ có thể bị đánh đập dã man, bị chết bất cứ lúc nào.

Cuộc đời A Phủ từ đây rơi vào bóng tối cùng cực. A Phủ chính thức trở thành nô lệ, là công cụ lao động trong nhà thống lý Pá Tra. Quanh năm suốt tháng anh chỉ làm việc quần quật chỉ một thân một mình. A Phủ hết đốt rừng, cuốc nương rồi lại săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa. Quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng. Anh chìm ngập trong cả núi công việc, không bao giờ ngơi tay. Cả ngày mưa lẫn ngày nắng người ta thấy lúc nào A Phủ cũng phải làm việc. Lâu dần anh quên cả ý nghĩa của sự tồn tại bản thân, quên hẳn những khát khao của tuổi trẻ.

Tưởng chừng số phận đã an bài số phận A Phủ sẽ là người nô lệ suốt đời suốt kiếp. Rồi anh sẽ chết khi không còn sức lực để làm việc nữa. Thân xác anh sẽ trở về với đất. Cái tên A Phủ sẽ không còn ai nhắc đến. Thế nhưng, một sự việc xảy đến, một lần nữa, cuộc đời A Phủ lại chuyển hướng. Bánh xe số phận lại gập ghềnh.

Lần đó, chỉ do mải mê bẫy dính mà anh để hổ bắt mất bò. Mất một con bò khiến cho thống lý Pá Tra vô cùng giận dữ. Nó trói đứng A Phủ vào cột suốt mấy ngày mấy đêm phải chịu đói, chịu rét cho đến khi A Sử và bọn trai làng giết được con hổ ấy thì chúng mới tha cho anh. Với sức của A Sử và bọn trai làng nghiện hút, A Phủ không tin chúng sẽ bắt được con hổ. A xin đi bắt hổ nhưng chúng không chịu. Chúng lo sợ anh sẽ bỏ trốn. Và thiếu chút nữa A Phủ đã phải trả giá bằng cả tính mạng của mình nếu không được Mị giải thoát.

Thông qua biểu phản ánh số phận đầy đau thương của nhân vật A Phủ, nhà văn tố cáo mạnh mẽ giai cấp thống trị độc ác đồng thời bày tỏ niềm đồng cảm sâu sắc đối với người dân nghèo. Trong con người của A Phủ, người đọc còn cảm nhận được ở anh những phẩm chất tốt đẹp. Đó là sự ý thức của A Phủ về quyền làm người. Ngay từ nhỏ A Phủ đã thể hiện sự dũng cảm của mình. A Phủ không chấp nhận sống dưới cánh đồng thấp nên đã trốn lên núi cao. Còn khi bị bọn A Sử phá đám trong buổi chơi tết, A Phủ để xông ra đánh A Sử mà không hề nghĩ rằng đó là con quan: “A Phủ sốc tới, nắm có vòng cổ (dấu hiệu con nhà quan) kéo dập đầu xuống, xé vai áo,đánh tới tấp”.

Khi bị bắt, bị đánh đập, A Phủ không hề kêu van. Anh không hề van xin mà lì như tượng đá. Ngay cả khi làm mất bò, A Phủ thản nhiên vác nửa con bò còn lại về ném xuống gốc đào trước cửa. Anh không chấp nhận chịu trói mà đòi lấy súng để đi bắn hổ. Anh nói dõng dạc: “cho tôi đi. Được con hổ ấy còn nhiều hơn con bò, cho tôi khỏi tội”. Đó là anh tự tin vào bản thân. Bị thống lý trói đứng vào cột, đến đêm A Phủ tìm cách nhay đứt hai vòng dây. Phải chăng, đó chính là ý thức của sự phản kháng trong con người A Phủ.

Khi được Mị giải thoát, dù chân khụy xuống, không bước đổi nhưng đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết A Phủ đã quật sức vùng lên chạy. Anh còn cứu thoát cả cuộc đời nô lệ của Mị. Sự vùng lên tự giải thoát cho chính mình của A Phủ (và Mị) tiêu biểu cho sự vươn lên của đồng bào dân tộc miền núi. Cho dù đó chỉ là sự tự phát nhưng đó là tiền đề cho sự vươn tới ánh sáng của Đảng ở chặng đời sau này của A Phủ.

Mặc dù không được Tô Hoài dành cho nhiều trang viết nhưng nhân vật A Phủ cũng thể hiện sự thành công của nhà văn trong bút pháp khắc họa nhân vật. Thông qua việc phản ánh số phận của A Phủ, nhà văn còn lên tiếng tố cáo tội ác của giai cấp thống trị phong kiến miền núi đồng thời bộc lộ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình.

Qua cuộc đời và số phận của nhân vật A Phủ, truyện thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi. Nhà văn trực tiếp phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người. Truyện khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ đặt ra vấn đề số phận con người, những con người dưới đáy xã hội, những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Thông qua cuộc đời đầy khổ đau, tủi nhục và sức mạnh vươn lên của nhân vật A Phủ và nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã đã chỉ ra con đường giải thoát cho người dân tộc miền núi. Muốn vượt lên sức mạnh của cường quyền và thần quyền chỉ có một cách là tìm đến ánh sáng của cách mạng, làm cách mạng và tự giải phóng mình ra khỏi ách thống trị, làm chủ cuộc sống của chính mình.

……………..

Văn Mẫu Lớp 10: Phân Tích Nhân Vật Khách Trong Phú Sông Bạch Đằng 2 Dàn Ý &Amp; 11 Bài Phân Tích Nhân Vật Khách

Dàn ý phân tích nhân vật Khách

1. Mở bài

– Giới thiệu về Trương Hán Siêu, tác phẩm Phú sông Bạch Đằng (hoàn cảnh ra đời của bài phú), giới thiệu về hình tượng nhân vật khách.

2. Thân bài

– Hình tượng nhân vật khách: tư thế của một con người có tâm hồn khoáng đạt.

Khách dạo chơi phong cảnh không chỉ để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên mà còn nghiên cứu cảnh trí đất nước, bồi bổ tri thức.

Hoài bảo lớn lao: “Nơi có … chẳng biết”; “Đầm Vân Mộng chứa ……vẫn còn tha thiết”.

– Tráng chí của khách được gợi lên qua hai loại địa danh:

Địa danh trong điển cố Trung quốc: rong chơi bể lớn, Sông Nguyên, Tương, Vũ huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ,Tam Ngô, Bách Việt – những vùng đất nổi tiếng, khách đã đi qua bằng sách vở.

Địa danh thứ hai là những địa danh đất Việt, với không gian cụ thể: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng là hình ảnh hiện tại mang tính đương đại hiện ra trước mắt

Cảnh sắc thiên nhiên hiện lên hùng vĩ hoành tráng “Bát ngát sóng kình muôn dặm – thướt tha đuôi trĩ một màu”.

Song cũng ảm đạm, hắt hiu “bờ lau san sát, bến lách đìu hiu – Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”.

– Nghệ thuật: lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động, vừa gợi hình sắc trực tiếp, vừa mang ý nghĩa khái quát, tính triết lý, ngôn từ trang trọng, hào hùng, vừa lắng đọng,gợi cảm.

3. Kết bài

– Với hình tượng nhân vật khách, bài phú thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống anh hùng và tư tưởng nhân văn cao đẹp. Sự hoài niệm về quá khứ là niềm tự hào về truyền thống dân tộc của tác giả.

Dàn ý hình tượng nhân vật Khách

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Trương Hán Siêu và tác phẩm Bạch Đằng giang phú

– Khái quát chung về nhân vật “khách”: Là hình tượng quan trọng trong bài, là sáng tạo nghệ thuật của tác giả để gửi gắm tình cảm, cảm xúc, tư tưởng.

II. Thân bài

1. Hình tượng khách với những cuộc ngao du.

– Khách là hình tượng quen thuộc trong thể phú bởi thể loại này thường có lối đáp chủ – khách. Khách chính là sự phân thân của tác giả để thể hiện tâm hồn, tình cảm, tư tưởng.

– Tâm hồn tự do, phóng khoáng: Giương buồm, giong gió, lướt bể, chơi trăng, mải miết.

– Có vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng: Các địa danh Trung Quốc – Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng đều được tác giả biết đến qua sách vở, qua sự tưởng tượng.

– Có tình yêu thiên nhiên, thiết tha với quê hương, đất nước với quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc: Một loạt các danh lam thắng cảnh của Đại Việt – Đại Than, Đông Triều và dừng chân ở Bạch Đằng, dòng sông của chiến công lịch sử vẻ vang của dân tộc.

– Tâm hồn say mê, chủ động đến với thiên nhiên: Cách nói cường điệu “sớm Nguyên Tương – chiều Vũ Huyệt”, hành trình dài được khách thực hiện trong một ngày. Không gian, thời gian của cuộc hành trình đã nâng cao tầm vóc của khách.

2. Hình tượng khách qua những cảm xúc trước cảnh sông Bạch Đằng.

– Cảnh sắc thiên nhiên trên sông Bạch Đằng: Hùng vĩ, tráng lệ “sóng kình muôn dặm, đuôi trĩ một màu”, thơ mộng, trữ tình “ba thu, nước trời một sắc”, hoang vu, hiu hắt “san sát, đìu hiu, giáo gãy, xương khô”.

– Tâm trạng của khách:

+ Phấn khởi, thích thú khi đứng trước cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng mà thơ mộng

+ Buồn thương, tiếc nuối trước cảnh vật đổi thay, cho những người đã ngã xuống

+ Tư thế “đứng lặng giờ lâu” cho thấy tâm thế đắm chìm vào cảm xúc buồn thương, tiếc nuối của khách.

→Khách có những phát hiện tinh tế, cụ thể vẻ đẹp cảnh sắc phong phú, đa dạng của sông Bạch Đằng

→Là con người yêu thiên nhiên, tự hào về những cảnh sắc hào hùng gắn với lịch sử dân tộc

3. Hình tượng khách và niềm tự hào về những chiến công của quá khứ.

– Khách không trực tiếp tham gia vào câu chuyện của các vị bô lão nhưng câu chuyện về những chiến công vẻ vang của một thời lịch sử oanh liệt gắn với con sông Bạch Đằng đã gieo vào trong đầu khách niềm tự hào, niềm kiêu hãnh về quá khứ hào hùng của dân tộc.

– Khách đồng tình với các vị bô lão trong việc lí giải nguyên nhân của chiến thắng do thiên thời – địa lợi – nhân hòa và đặc biệt nhấn mạnh yếu tố con người. Cho thấy cái nhìn xa trông rộng đậm màu nhân văn của các bô lão và khách.

4. Hình tượng khách qua sự suy ngẫm về hưng vong của đất nước.

– Khách đã trực tiếp bày tỏ suy nghĩ của mình

– Ca ngợi dòng sông Bạch Đằng – chứng nhân lịch sử

– Ca ngợi hai vị thánh quân tài năng, đức độ

– Ca ngợi cuộc sống thanh bình của dân tộc

→Khẳng định tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước của khách.

5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.

– Khắc họa suy nghĩ, hành động nhân vật.

– Sử dụng phép liệt kê, phóng đại, ẩn dụ

– Ngôn ngữ trang trọng, hàm súc

– Cách kể và tả ngắn gọn nhưng giàu sức biểu đạt.

III. Kết bài

– Khái quát nội dung và nghệ thuật xây dựng nhân vật

Cảm nhận về nhân vật Khách trong bài Phú sông Bạch Đằng

Nếu như Lê Quý Đôn từng khen phú đời Trần: “khôi kì, hùng vĩ, lưu loát, đẹp đẽ, âm vận, cách điệu giống như thể văn nhà Tống”, thì điều đó thật đúng đối với Bạch Đằng giang phú. Bài phú sử dụng nhiều hình ảnh, điển tích chọn lọc, kết hợp với sự sáng tạo hình tượng nhân vật “khách” một nhân vật đại diện cho hiện tại, cho sự phân thân của cái tôi tác giả, một cái tôi tráng sĩ của đất nước.

Phú Sông Bạch Đằng thể hiện tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào về một dân tộc có tinh thần kiên cường, bất khuất, mưu lược cũng như nêu cao tinh thần, ngợi ca tấm lòng và khẳng định vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.

Mở đầu là con người ung dung, tự tại, đam mê say đắm cảnh sắc thiên nhiên :

Khách đi để mở mang, để du ngoạn nơi biển lớn, sông hồ và những vùng đất nổi tiếng:

Trong những dòng thơ đầu tiên, tác giả đặc biệt tạo ấn tượng về chiều sâu trong bề dày lịch sử của Bạch Đằng giang. Đó vừa là dòng sông địa lý, vừa là dòng sông lịch sử với bao lớp sóng lớn trùng điệp. Điều đáng lưu ý là ngoài vẻ thiêng liêng hùng vĩ, sông Bạch Đằng còn nên thơ và trữ tình, nó dịu dàng e ấp như những nàng thơ, nó thơ mộng nên duyên với sóng nối sóng, với thuyền bè nối đuôi nhau trôi dập dềnh trên sông. Người xưa thường nói tức cảnh sinh tình, có lẽ bởi thế mà đứng trước thiên nhiên vừa nên thơ vừa trữ tình ấy khiến lòng người rạo rực, khiến nỗi buồn niềm vui như lẫn lộn. Nơi chiến trường ta từng chiến đấu và chiến thắng, nơi trận thủy chiến lừng lẫy trong lịch sử nhưng kể sao cho hết những hi sinh mất mát với báo giáo gãy, bao máu và mồ hôi đã đổ xuống xương khô. Đất trời cũng như hiểu lòng người, lau lách như thể trở về quá khứ, gợi lại những ngày chiến đấu căng thẳng để thế hệ hôm nay không tránh khỏi động lòng tiếc nuối, xót thương cho bao anh hùng đã khuất.

Người “tráng chí bốn phương” với tâm hồn lúc nào cũng “vẫn còn tha thiết”:

Đoạn đầu này sử dụng triệt để thủ pháp tượng trưng. Cái “tráng chí bốn phương” của khách được dựng nên bằng những địa danh. Có loại địa danh gợi ra thời gian quá khứ xa xăm :

Ta để ý nếu ở phần trên, các địa danh thực ra đều là ảo thì đến đây mới là địa danh thực mà tác giả đã trực tiếp đặt chân như cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng (Sông Bạch Đằng có nguồn chính chảy từ sông Lục Đầu, xưa gọi là cửa Bạch). Hai chi lưu là sông Chanh dài khoảng 18km với dòng chính đổ ra cửa Nam Triệu. Trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi từng mô tả: “Sông Vân Cừ (tức sông Bạch Đằng) rộng 2 dặm linh 69 trượng, sâu 5 thước, núi non cao vót, nước suối giao lưu, sóng tung lên tận trời, cây cối lấp bờ, thật là nơi hiểm yếu”. Không chỉ vậy ngày nay dòng sông này vẫn còn tên bến Rừng, phà Rừng trên đường sang Hải Phòng. Người Quảng Yên trước đây từng lưu truyền câu “Con ơi, nhớ lấy lời cha/ Gió nồm, nước rặc chớ qua sông Rừng” để nói lên sự hiểm yếu của sông là vậy.) Nhà thơ đưa ra một cái tên Bạch Đằng mang trong mình dấu mốc lịch sử của trận thủy chiến với những chiến công vang dội của nó.

Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để nổi bật sự thảnh thơi của nhân vật trữ tình nổi tiếng tính tình cương trực, tâm hồn phóng khoáng. Điều đó hoàn toàn phù hợp với đặc điểm phóng khoáng hào mại của khách. Nói cách khác nhân vật khách cũng chính là “cái tôi” tác giả. Đó là những cá nhân sôi nổi, ham hiểu biết, muốn di dưỡng tinh thần, sống cuộc đời tự do tự tại. Như vậy, khách được giới thiệu bằng tất cả niềm trân trọng như cách tác giả tự khẳng định, tự giới thiệu mình: một hồn thơ hào sảng, một khách hải hồ cũng là kẻ sĩ luôn một lòng thiết tha với đất nước, quê hương. Quả đúng, nhân vật khách có tính chất công thức của thể Phú vừa chân thực, vừa sinh động. Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng là những địa danh đặc biệt nổi tiếng mà khách đã đặt chân ngao du. Nếu như những địa danh của Trung Quốc thể hiện tráng chí bốn phương của khách, thì mỗi miền đất Việt ghi dấu bước chân người tráng sĩ này đều mang dấu ấn của trái tim sục sôi yêu nước.

Trước hình ảnh Bạch Đằng “bát ngát sóng kình muôn dặm” , “ thướt tha đuôi trĩ một màu” với “ nước trời…”, “ phong cảnh…”, “ bờ lau…”, “ bến lách…” như đẩy lòng người rơi vào bức tranh tâm trạng với nỗi buồn vui man mác. Vui khi thiên nhiên ấy, dòng sông ấy vẫn sống vĩnh hằng nằm ngoài sự băng hoại của thời gian, vui vì nó vẫn cuồn cuộn chảy dù mang trong mình bao dấu tích của cuộc chiến khắc nghiệt thế nhưng ta chợt thoáng buồn. Nỗi buồn khi yên bình hôm nay phải đánh đổi bằng máu xương của bao thế hệ cha anh đã nằm xuống, nỗi buồn vì trang sử hào hùng của dân tộc đã ghi hằn máu và nước mắt của biết bao trái tim quả cảm. Sự vấn vương ở đây có chút gì đó làm lòng ta nặng trĩu khi một phút trầm tư nhìn lại nhịp thời gian chảy trôi quá đỗi vô tình cũng như lòng người nhanh chóng đổi thay. Nói cách khác, những âm hưởng trữ tình đối lập ở trong tác phẩm đã tạo nên một ngân vang sâu thẳm và ngân vang này chính là triết lý: sự sống là một tiếp biến không ngừng không nghỉ, cái đang diễn ra và cái đã đi vào vĩnh cửu cứ đan quyện lấy nhau, mà cái nhân tố có khả năng kết nối làm nên sự đan quyện ấy, khiến cho sợi dây chuyền vô hình nghiệt ngã của thời gian có lúc tưởng như bị đảo ngược: hiện tại không hẳn đã trôi về quá khứ tất cả, mà có phần nào đó còn trôi theo chiều ngược lại, còn có “dấu vết lưu lại” với hậu thế.

Như vậy qua hình tượng nhân vật khách ta thấy chân lí : Hào kiệt đời nào cũng có, đó là sức mạnh, là niềm tin, cũng là niềm tự hào dân tộc tư tưởng nhân văn cao đẹp. Với tâm trạng hân hoan, khách vừa đề cao công lao to lớn của các vị anh hùng đời Trần, vừa bày tỏ niềm tin vào tương lai vững mạnh, trường tồn và nêu cao đức cao của dân tộc. Sức mạnh của non sông đất nước không phải ở địa thế hiểm trở mà nằm chính ở niềm tin và ý chí kiên gan bền bỉ của con người (Giặc tan muôn thuở thanh bình – Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao).

Câu từ đơn giản mà hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động, vừa gợi hình đặc sắc trực tiếp, vừa mang ý nghĩa khái quát triết lý, ngôn từ vừa trang trọng, hào sảng, là ngôi sao sáng ngời khẳng định chủ quyền dân tộc Việt Nam. Tác phẩm cũng thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc “khắc họa một cảnh trí mỹ lệ của Tổ quốc với cả hình bóng chiến công oanh liệt của quân dân ta thời trước”, là “một bài phú mẫu mực chẳng những thể hiện đậm nét hào khí Đông A của văn học thời trần mà còn có giá trị to lớn trong lịch sử văn học nước nhà.”.

Phân tích nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 2

Người nghệ sĩ ra đi, nhưng tác phẩm anh để lại cho đời là bất tử. Và những tác phẩm lại sống trong lòng người đọc muôn thế hệ bằng những thông điệp nhân văn, bằng những hình tượng nghệ thuật giàu giá trị. Có thể nói, bài Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu đã xây dựng được một hình tượng nhân vật như thế trong dòng chảy lịch sử văn học Việt Nam. Hình tượng nhân vật khách.

Phú là một thể văn cổ, có những đặc điểm và quy phạm riêng, về mặt xây dựng nhân vật và hình tượng, thì trong bài phú nhân vật khách là một nhân vật được tác giả hư cấu, tưởng tượng, xây dựng theo hình thức đối đáp với một nhân vật nào đó (trong bài này là với các vị bô lão) Nhân vật khách trong bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là hình tượng trung tâm của toàn bộ tác phẩm, mạch chảy mạch kết cấu của văn bản theo toàn bộ những dòng suy tưởng, đó là sự bộc bạch cái tráng chí bốn phương tha thiết và là nỗi niềm về cả một thời dĩ vãng oanh liệt của dân tộc năm xưa trên sông Bạch Đằng.

Mở đầu bài phú, nhân vật khách xuất hiện như một bậc tao nhân mặc khách với tráng chí bốn phương ngao du sơn thủy, lấp đầy tâm hồn mình bởi vẻ đẹp tráng lệ, hùng vĩ của thiên nhiên non sơn kỳ thú:

Các từ “chơi vơi”, “mải miết” tạo cho người đọc một cảm giác mới mẻ về nhân vật khách, một bậc tài tử lãng du cùng với thú vui sơn thủy, đắm chìm trong không gian rộng lớn, thơ mộng khoáng đạt. Thiên nhiên mây, gió, trăng bỗng trở thành người bạn của nhân vật khách với thú vui tao nhã. Cách liệt kê một loạt những địa điểm nổi tiếng cho thấy khả năng đi nhiều, biết nhiều và tráng chí bốn phương của nhân vật khách, gợi nên một tâm hồn phóng khoáng, thích ngao du và mang vẻ đẹp lộng gió như được hơi thở của thiên nhiên đằm vào điệu tâm hồn nhân vật.

Tiếp tục người đọc nhận thấy rằng, trong rất nhiều điển tích điển cố, chỉ có điển tích Tử Trường được nhắc đến, nhưng sự gợi nhắc của tác giả ở đây không phải để nhấn mạnh về việc nhân vật khách học cách ghi chép sử ký, mà là học cái thú tiêu dao, ngao du sơn thủy của những bậc tài tử ngày trước.Đó không chỉ là việc trau dồi, học hỏi trong những hành trình đã đi qua, mà còn là sự chiêm nghiệm của nhân vật khách đầy sâu sắc về những thắng cảnh lịch sử của dân tộc. Cụ thể, là ở đoạn thơ sau, khi nhân vật khách hồi tưởng về quá khứ hào hùng mà cũng đầy bi thương của dân tộc.

Khác hẳn với không gian rộng lớn và khoáng đạt trên kia, cảnh vật giờ dường như đã hóa thảm sầu, nhuốm một màu buồn thấm lan tỏa lên toàn bộ bức tranh chung. Đó là niềm xót thương, cũng là sự câm lặng nén chặt đau thương khi nghĩ đến những người anh hung, những người chiến sĩ đã hi sinh, đã ngã xuống, đã hóa thân linh hồn mình vào mảnh đất nơi đây. Đó là phút trầm mặc để tri ân, để tưởng niệm về những cống hiến và sự hi sinh vĩ đại của họ. Những dấu vết xưa còn lưu lại như một gợi nhắc về dấu phong xưa, về quá khứ vàng son của lịch sử dân tộc, đồng thời là một điểm tựa lịch sử để thế hệ sau noi gương, trau mình.

Từ tiếc được đặt ở đầu câu thơ, thể hiện mạnh mẽ cảm xúc trong lòng nhân vật khách, đó là sự tiếc nuối và nỗi buồn hoang hoải của nhân vật khách khi chứng kiến sức mạnh ăn mòn vạn vật của thời gian đã làm phai mờ dấu tích oai hùng một thời. Theo dòng cảm xúc ấy, bao nhiêu thương cảm dồn nén ấy hóa ra lại đẩy lên trong lòng thi nhân một ước vọng được một lần nữa sống lại những khoảnh khắc oai hùng như thuở xưa. Con sông Bạch Đằng đã là nơi ghi dấu của những chiến tích lịch sử hào hùng, nơi mà quân địch thất bại ê chề nhục nhạc, giọng kể vừa hào hùng vừa xen lẫn những yếu tố lãng mạn, tạo cảm giác đầy cuốn hút cho người đọc. Khiến cho dẫu người đọc đến từ những thế sau, vẫn cảm nhận một cách chân thực, sống động quá khứ lịch sử hào hùng của cha ông, để cùng hòa điệu, hòa nhịp với dòng chảy lịch sử oai hùng của một thời kì vĩ đại.

Sự hồi tưởng về quá khứ vẻ vang mà cũng đầy đau thương của nhân vật khách phải chăng chính là đang thể hiện một vẻ đẹp đạo lí truyền thống ngàn đời của dân tộc, đó là uống nước nhớ nguồn, tìm về, nhớ về quá khứ lịch sử là một cách để tri ân, để tưởng nhớ, và để sửa mình sao cho đúng đắn với sự hy sinh mà cha ông ta đã bỏ ra.

Qua ngòi bút tài hoa của Trương Hán Siêu, thông qua dòng chảy trong mạch cảm xúc của nhân vật khách như giúp người đọc bước vào thế giới lịch sử xa xưa, để cùng cảm nhận về những thành tựu vẻ vang, cũng như sự mất mát hi sinh lớn lao không gì tả xiết của những thế hệ đã ngã xuống. Và một lần nữa, cho ta hiểu thêm về tráng trí hải hồ ngao du của nhân vật khách.

Phân tích nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 3

“Khách có kẻ” trong “Bạch Đằng giang phú” là nhân vật trữ tình không ai khác mà chính là Trương Hán Siêu. Trong các bài phú cổ, nhân vật “khách” không mấy xa lạ. “Ngọc tỉnh liên phú” (bài phú Sen giếng ngọc) của Mạc Đĩnh Chi (?-1346) cũng có nhân vật “khách”: … “Khách có kẻ: nơi nhà cao tựa ghế, trưa mùa hạ nắng nồng. Ao trong ngắm làn nước biếc, Nhạc phủ vịnh khúc Phù Dung”. “Khách” ở đây là Mạc Đĩnh Chi biểu lộ tấm lòng thanh cao, chí khí, tài năng và hoài bão của kẻ sĩ ở đời.

Ta đã từng biết, Trương Hán Siêu là danh sĩ nổi tiếng đời Trần, tính tình cương trực, tâm hồn phóng khoáng. Chín câu đầu cho thấy “khách” là một tao nhân với rượu túi thơ “chơi vơi” theo cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông biển. Sống hết mình với thiên nhiên, du ngoạn thăm thú mọi cảnh đẹp xa gần. Đêm thì “chơi trăng mải miết”, ngày thì: “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt”,…

Khách đã đi nhiều và biết nhiều. Các danh lam thắng cảnh như Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,… đều ở trên đất nước Trung Hoa mênh mông, ở đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng nói lên một cá tính, một tâm hồn: yêu thiên nhiên tha thiết, lấy việc du ngoạn làm niềm lạc thú ở đời, tự hào về thói “giang hồ” của mình:

Các địa danh xa lạ không chỉ là cảnh đẹp mà còn gợi ra một không gian bao la, chỉ có những người mang hoài bão và “tráng chí bốn phương” mới có thể “giương buồm…lướt bể” đi tới. Đầm Vân Mộng là một thắng cảnh tiêu biểu cho mọi thắng cảnh. Thế mà “Khách” đã “chứa vài trăm trong dạ”, đã thăm thú nhiều lần đã từng thưởng ngoạn bao cảnh đẹp tương tự. Vẫn chưa thỏa lòng, vẫn còn “tha thiết” với bốn phương trời.

Phần đầu bài phú nói lên cốt cách kẻ sĩ: chan hoà với thiên nhiên, lấy chữ “nhàn” làm trọng, gián tiếp phủ định lợi danh tầm thường.

“Qua cửa Đại Than… đến sông Bạch Đằng”

Đoạn văn tiếp theo nói lên niềm vui thú của nhà thơ khi đến chơi sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu đã theo cái chí của người xưa “học Tử Trường” đi về phía Đông Bắc “buông chèo” cho thỏa chí “tiêu diêu”. Người xưa nói: “Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường”. Tử Trường là Tư Mã Thiên, tác giả bộ “Sử ký” bất hủ, là nhà văn, nhà sử học tài ba đời Hán. Con người ấy vẫn được xem là nhà du lịch có một không hai thời xưa. Trương Hán Siêu với cánh buồm thơ lần theo sông núi:

Bạch Đằng giang, con sông oai hùng của Tổ Quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc.Cuối thu (ba thu) nước trời một màu xanh bao la “Bát ngát sóng kình muôn dặm – Thướt tha đuôi trĩ một màu- Nước trời: một sắc- Phong cảnh ba thu”.

Câu văn tả thực mượn một hình ảnh của Vương Bột trong bài “Đằng Vương các” “Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” (Sông thu cùng với trời xa một màu). Tả con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông (1288-1356) viết: “Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc… Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối- Lầm tưởng rằng máu người chết vẫn chưa khô” (Bạch Đằng giang – Dịch nghĩa). Cảnh núi non, bờ bãi được miêu tả, đã tái hiện cảnh chiến trường rùng rợn một thời:

Bờ lau, bến lách gợi tả không khí hoang vu. hiu hắt. Núi gò, bờ bãi trập trùng như gươm giáo, xương cốt lũ giặc phương Bắc chất đống. Nét vẽ hoành tráng ấy, một thế kỷ sau Ức Trai cũng viết: “Ngạc chặt kình băm non lởm chởm – Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng” (“Cửa Biển Bạch Đằng”).

Trương Hán Siêu miêu tả dòng sông Bạch Đằng bằng những đường nét, màu sắc gợi cảm. Những ẩn dụ và liên tưởng mới về dòng sông lịch sử hùng vĩ được miêu tả qua những cặp câu song quan và tứ tự tuyệt đẹp. Mấy chục năm sau trận đại thắng trên sông Bạch Đằng(1288) nhà thơ đến thăm dòng sông cảm thương xúc động:

Một tâm trạng: “buồn, thương tiếc”, một cảm xúc “đứng lặng giờ lâu” của “khách” đều biểu lộ sự xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn sâu sắc, vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã đem xương máu bảo vệ dòng sông và sự tồn vong của dân tộc. Đó là tình nghĩa thuỷ chung “uống nước nhớ nguồn”

“Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”

Các bô lão – nhân vật thứ hai xuất hiện trong bài phú. Từ miêu tả và trữ tình, nhà thơ chuyển sang tự sự, ngôn ngữ sống động biến hoá hẳn lên, Cảm hứng lịch sử mang âm điệu anh hùng ca dâng lên dào dạt như những lớp sóng trên sông Bạch Đằng vỗ. Khách và bô lão ngắm dòng sông, nhìn con sóng nhấp nhô như sống lại những năm tháng hào hùng oanh liệt của tổ tiên.

Phân tích nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 4

Trương Hán Siêu là một người có tính tình cương trực, học vấn uyên tâm, được các vua Trần tin cậy và tin dùng. Ông là một trong những danh sĩ nổi tiếng nhất đời Trần, nhưng số lượng tác phẩm để lại không nhiều. Nổi bật nhất là Bạch Đằng giang phú, với hình tượng nhân vật “khách” để lại nhiều dư âm, ấn tượng trong lòng bạn đọc. Nhân vật “khách” có thú du ngoạn bốn phương, tâm hồn tự do, phóng khoáng :

Các địa danh được liệt kê liên tiếp: Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô,… đây đều là những địa danh của Trung Quốc, thắng cảnh đẹp đẽ mà ai cũng mong muốn, mơ ước được một lần đặt chân đến. Nhân vật “khách” mượn những địa danh này để nói lên niềm đam mê, sở thích du ngoạn bốn phương của mình. Cách ông dùng từ đối lập: sớm – tối đã thể hiện rõ sở thích ngao du thiên hạ của bản thân. Qua sở thích đó còn thể hiện khát vọng tìm đến những vùng đất mới để khám phá và tìm hiểu văn hóa, lịch sử. Mặc dù nhân vật khách đã được đi nhiều nơi nhưng Mà tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết. Đằng sau đó, ta còn thấy nguyện vọng, mong muốn thật sự của nhân vật “khách” khi đi du ngoạn non sông là muốn học theo Tử Trường ngao du mọi nơi để tìm hiểu về lịch sử dân tộc.

Dưới con mắt của nhân vật “khách” bức tranh Bạch Đằng hiện lên vô cùng sống động. Cảnh sông nước Bạch Đằng bao la, bát ngát, hùng vĩ với bầu trời xanh ngắt: Bát ngát sóng kình muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu/ Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu. Nhưng bên cạnh đó còn là bức tranh ảm đạm, thê lương, hiu hắt với dấu vết của chiến tích xưa còn để lại: Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/ Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Hai bên bờ hun hút chỉ có bờ lau nối tiếp bến lách. Hai từ láy tăng nghĩa, bổ trợ cho nhau để làm rõ sự hoang vu, vắng vẻ của không gian. Nhìn sông mà khiến nhân vật khách liên tưởng đáy sông đầy vũ khí bỏ lại sau những trận chiến, nhìn gì mà liên tưởng tới nấm mồ của bao nhiêu người đã bỏ mạng ở nơi đây. Câu thơ gợi nhắc ta nhớ đến bài Bạch Đằng hải khẩu của Nguyễn Trãi :

Cả hai tác phẩm đều nhấn mạnh vào cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên vĩ đại của dân tộc ta với khung cảnh hiu quạnh, hoang vắng. Qua đó còn thể hiện niềm cảm thương với những người đã mất ở nơi đây. Đứng trước không gian đó, nhân vật “khách” choáng ngợp, hạnh phúc, thỏa mãn khi được ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đất nước. Nhân vật “khách” đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh đẹp nhất để miêu tả lại khung cảnh mình đang chìm đắm ngắm nhìn để rồi cảm thấy ngỡ ngàng nhận ra đằng sau vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng ấy, sông Bạch Đằng còn ghi dấu những chiến tích đã qua. Đoạn thơ đánh dấu sự chuyển đổi cảm xúc mạnh mẽ của nhân vật khách: Từ một người háo hức, say mê, có tâm hồn phóng khoáng, tự do chuyển sang trầm tư, buồn thương, tiếc nuối: Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/ Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Đằng sau những trạng thái cảm xúc ấy, người đọc hình dung được trọn vẹn chân dung của nhân vật “khách” – hay chính là tác giả – một con người có tâm hồn phóng khoáng, ham thích tìm hiểu lịch sử dân tộc và tình yêu quê hương đất nước.

Hình tượng nhân vật “khách” một lần nữa được tái hiện qua phần cuối tác phẩm, với những lời ngợi ca hô ứng với lời ca ngợi của các bô lão. Nhân vật khách đã cụ thể hóa chân lí của các bô lão nêu ở trên: Những người bất nghĩa tiêu vong/ Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh. Hai vị anh hùng được nhắc chính là Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông sẽ lưu danh muôn thuở, tiếng thơm lưu truyền mãi muôn đời. Không chỉ vậy ông còn ca ngợi dòng sông Bạch Đằng ghi dấu những chiến công anh hùng suốt chiều dài lịch sử đất nước. Mượn ý trong câu thơ Đỗ Phủ “Tịnh tẩy giáp binh trường bất dục” (rửa sạch vũ khí mãi mãi không dùng đến), thể hiện mong muốn có cuộc sống hòa bình độc lập. Đây cũng chính là mục đích của những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Đặc biệt ông đề cao yếu tố con người, nhất là sự nhân đức: Giặc tan muôn thuở thanh bình/ Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao. Chiến thắng ta giành được không chỉ ở lực lượng hùng mạnh mà yếu tố quyết định làm nên chiến thắng là nhân đức của con người. Câu thơ đã cho thấy giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm.

Bằng lớp ngôn từ hào sảng, giọng điệu biến đổi linh hoạt, nhân vật khách hiện lên là một người có lòng yêu quê hương đất nước tha thiết, không chỉ vậy ông còn là người có niềm đam mê tìm tòi, mở rộng hiểu biết của bản thân. Ngoài ra, những vần thơ cuối cùng của bài còn cho thấy tầm nhìn xa trộng rộng, tấm lòng nhân văn sâu sắc của nhân vật trữ tình.

Phân tích nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 5

Trong sự nghiệp văn học của mình, Trương Hán Siêu sáng tác không nhiều nhưng có lẽ chỉ cần một Bạch Đằng giang phú cũng đủ để làm nên tên tuổi của ông. Đọc bài ca, hầu hết mọi người đều chung ý nghĩ: nhân vật “khách” là sự phân thân của chính tác giả và sự xuất hiện của nhân vật này có ý nghĩa khá quan trọng.

Mở đầu bài phú, hình tượng nhân vật “khách” hiện lên gây ấn tượng trong mỗi chúng ta bởi thú tiêu dao. “Khách” dạo chơi phong cảnh để thưởng ngoạn vẻ đẹp của thiên nhiên, để nghiên cứu cảnh trí đất nước, bồi bổ tri thức. Tư thế của “khách” là tư thế của con người có tâm hồn khoáng đạt, hoài bão lớn lao:

Tráng chí của “khách” thực ra cũng chính là tráng chí của Trương Hán Siêu. Nó được gợi lên từ các địa danh mà “khách” đã đi qua. Có những địa danh “khách” đi qua bằng sách vở, bằng trí tưởng tượng:

Không gian “khách” đi qua thường là không gian rộng lớn như biển lớn (lướt bể chơi trăng), sông hồ (Cửu Giang, Ngũ Hồ), là những vùng đất nổi tiếng như Tam Ngô, Bách Việt, Vân Mộng… Những chuyến phiêu lưu trong tưởng tượng như thế thể hiện tráng chí bốn phương của “khách”. Điều đáng quý là không vì mải miết chơi xa mà “khách” quên yêu những thắng cảnh của đất nước mình. Và đó là lí do “khách” dừng chân ở sông Bạch Đằng:

Để rồi, thuyền trôi đến nơi đâu trên dòng sông ấy, trong lòng “khách” cũng sống lên những cảm xúc tự nhiên, chân thành. Có khi tráng chí cất cánh cùng thiên nhiên hùng vĩ:

Cũng có khi lòng “khách” lắng vào cảnh vật ảm đạm, hiu hắt:

Có thể nói tư tưởng nhân văn của Trương Hán Siêu được thể hiện đậm nét trong những câu ca này và chính “khách” là người phát ngôn thay cho tác giả. Lời ca của “khách” khẳng định vai trò, vị trí quyết định của yếu tố con người trong công cuộc trùng hưng đất nước. Theo Trương Hán Siêu, thắng giặc không cốt ở đất hiểm mà chủ yếu là đức lớn, là sức mạnh của con người. Không có con người thì những yếu tố “thiên thời, địa lợi” cũng không giúp con người chiến thắng. Lời ca của nhân vật “khách”, thể hiện rõ sự tôn kính đối với hai vị vua triều Trần (Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông). Ngợi ca công lao nghìn năm tiết rỡ của con người là cách Trương Hán Siêu thể hiện cảm hứng mang giá trị nhân văn có tầm triết lí sâu sắc.

Như vậy, nhân vật “khách” xuất hiện trong tác phẩm cùng với những ý nghĩa quan trọng. Đây chính là hình ảnh trữ tình của nhà văn Trương Hán Siêu. “Khách”vừa là hình tượng nhân vật trong bài phú, vừa thể hiện lòng yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc cũng như tinh thần nhân văn cao cả. Từ nhân vật này, ta có thể hình dung một cách rõ ràng về nội dung tư tưởng của sáng tác và tấm lòng yêu nước của Trương Hán Siêu.

Phân tích nhân vật Khách – Mẫu 6

Nhân vật khách là sự hoá thân của tác giả. Nhân vật có thú du ngoạn là để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên, sống với thiên nhiên và để nghiên cứu tìm hiểu lịch sử đất nước. Hai câu đầu cho thấy niềm say mê vui thú gió trăng với tâm hồn khoáng đạt, rộng mở. Những địa danh Trung Hoa được nhắc đến cho biết thêm, tác giả cũng đã du ngoạn xứ người qua sách vở, tưởng tượng. Tâm hồn và tri thức nhờ đó mà được bồi dưỡng khá phong phú. Thế nhưng vẫn chưa toại nguyện, tác giả còn khát khao “vẫy vùng” trong bể tri thức cho thỏa tráng chí: Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.

Tác giả cho rằng mình học Tử Trường (Tư Mã Thiên) đi thú tiêu dao. Điều đó có nghĩa là tác giả không chỉ say mê thiên nhiên đẹp mà còn có ý thức tìm hiểu lịch sử dân tộc, muốn sưu tầm lưu giữ những kì tích, chiến công của nhân dân bao thế hệ mà có thể sử quan triều đình chưa biết hết. Ý thức lịch sử, tinh thần dân tộc của học giả thật đáng ca ngợi. Trở về với những danh thắng của đất nước, tác giả không khỏi sung sướng và tự hào:

Đây là điểm đến mà tác giả từng chờ đợi, ao ước nên bây giờ tận mắt chiêm ngưỡng mới thật hào hứng, mới thấy hết vẻ hùng tráng và không khí tấp nập ghe thuyền buôn bán của miền đất trù phú. Nếu làm phép so sánh ngầm về danh thắng giữa nước ta với Trung Hoa sẽ thấy tác giả rất đỗi tự hào vì đất nước mình cũng có những danh thắng đâu kém gì. Nhưng tác giả không chỉ đến đây ngắm cảnh mà còn tìm hiểu lịch sử nên nhìn dòng sông qua lớp sóng thời gian, thấy đâu đó trong không gian như còn lưu giữ hình ảnh chiến địa hoang tàn cùng với những ánh hùng chiến trận nay đã thành người thiên cổ:

Âm hưởng lời ca trầm lắng, suy tư mở ra cảnh đẹp bát ngát, trong sáng êm ả nhưng ảm đạm, đìu hiu. Lời ca chứa đựng mối u hoài, mặc tưởng. Trong đó phảng phất nỗi buồn thương cho vật đổi sao dời: chiến trường oanh liệt, những dũng tướng oai hùng đã phai nhoà theo dấu vết thời gian. Nỗi thương tiếc quá khứ ấy đã biểu hiện tấm lòng yêu kính tiền nhân. Hình ảnh khách hiện lên trong đoạn đầu có tâm hồn đẹp và giàu ý thức dân tộc.

Chiến trận Bạch Đằng xưa hiện ra qua lời kể của các bô lão. (Từ câu: Bên sông các bô lão… đến câu: Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh). Bô lão là nhân vật tập thể, là người địa phương, nhưng cũng có thể là tác giả. Thái độ của bô lão với khách: vừa tôn kính (vái tạ) vừa nhiệt tình, hăm hd kể chuyện xưa. Họ cũng hãnh diện tự hào về quê hương lịch sử của mình qua câu ca dài hơi như lịch sử giữ nước:

Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt

Họ đã tái hiện cảnh chiến trường qua bút pháp chấm phá:

Cách kể chuyện khá tài hoa, cô đọng, chỉ điểm qua những nét chính mà dựng cả quang cảnh, diễn biến và không khí chiến trường. Cuộc chạm trán trên sông thật dữ dội hoành tráng, trận kịch chiến đối đầu giằng co quyết liệt, long trời lở đất, mịt mù khói lửa. Biện pháp thậm xưng đã thể hiện khí thế ngất trời, cuối cùng chiến thắng vẻ vang thuộc về quân ta, làm nổi rõ “hào khí Đông A” một thời. Lời bình của người kể:

Bọn giặc tham lam, bất nghĩa nên thất bại. Đó là nỗi nhục của quân thù không thể phai và là tấm gương soi cho lịch sử: Đến nay nước sông tuy chảy hoài Mà nhục quân thù khôn rửa nổi! Ta chiến thắng tưng bừng là nhờ địa thế hiểm trở và nhờ nhân tài. Lời bình vừa tự hào vừa khâm phục, ca ngợi lịch sử giữ nước hào hùng:

So sánh trận Bạch Đằng với những trận chiến nổi tiếng của Trung Hoa như Xích Bích, Hợp Phì, là cho thấy sự nổi tiếng và tầm oanh liệt ngang nhau, khẳng định trang trọng tài trí Ngô Quyền và vua tôi nhà Trần là bất tử. Sự so sánh còn thể hiện niềm tự hào dân tộc. Đoạn phú tự sự đậm chất sử thi, anh hùng ca và niềm tự hào lịch sử qua giọng kế hào hứng, dõng dạc, trang nghiêm,

Lời ca cuối của các bô lão:

Đó là chân lí vĩnh viễn. Lời ca sảng khoái, tự hào vang mãi cùng sông nước và hình bóng các bô lão cũng theo thuyền khuất dần sau bờ lau cao.

Lời ca của khách điệp theo: (Còn lại)

Tác giả cũng ca ngợi công đức, tài năng của hai vị vua nhà Trần: Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông nhưng khác với các bô lão, Trương Hán Siêu đề cao vai trò của con người chứ không phải nhờ địa thế hiểm yếu và bổ sung lẽ sống đạo đức của giống nòi. Đó là chân lí, lẽ phải làm nên chiến thắng.

Phân tích nhân vật Khách – Mẫu 7

Văn học dân tộc đã từng ghi lại biết bao nhiêu những hình tượng đẹp. Là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn với bao nỗi trăn trở sục sôi về tinh thần tướng sĩ trong bài hịch bất hủ. Là vua Lí Công Uẩn đầy khảng khái, hi vọng về tương lai đất nước trong Chiếu dời đô. Là bậc khai quốc công thần Nguyễn Trãi hào sảng, khí thế trong Đại cáo bình Ngô. Và khoảng sau 50 năm sau chiến thắng trên sông Bạch Đằng, có một Trương Hán Siêu đầy hoài niệm về những chiến công trong lịch sử dân tộc trong Phú sông Bạch Đằng. Nhưng để bộc lộ, giãi bày xúc cảm ấy, bậc nho sĩ thời Trần đã gửi gắm qua hình tượng nhân vật khách, một sáng tạo thành công về mặt nghệ thuật đưa Phú sông Bạch Đằng trở thành một trong số những tác phẩm xuất sắc của thơ văn trung đại.

Qua những hình ảnh có tính ước lệ, cường điệu giương buồm giong gió, lướt bể chơi trăng, sớm gõ thuyền, chiều lần thăm khách hiện lên trong dáng vẻ của một con người có tâm hồn khoáng đạt, thích ngao du. Vị mặc khách ấy như thể đang vi vu với gió trăng, trời bể suốt tháng ngày. Hai từ láy chơi vơi, mải miết càng tô đậm thêm sự say mê, đắm chìm trong giấc mộng hải hồ. Phép liệt kê đã đưa khách viễn du đến những cảnh đẹp của Trung Quốc, rồi lại trở về lướt thuyền tới sông Bạch Đằng. Những vùng đất bắc phương kia, dẫu khách chưa từng đặt chân đến, có khi chỉ biết qua sách vở nhưng đã thể hiện sự hiểu biết rộng của một bậc nho sĩ và cái tráng trí bốn phương của kẻ lãng du. Đi để khám phá thiên nhiên, để mở mang tri thức. Vì thế cứ nơi có người đi, đâu mà chẳng biết, dù vài trăm trong dạ cũng nhiều nhưng tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết. Khát vọng, hoài bão được thưởng ngoạn, ngao du cứ thế mà bay bổng. Nên điển tích Tử Trường không phải để học cách ghi chép sử kí, mà là học cái thú tiêu dao. Sự học ấy là để hòa mình vào thắng cảnh, nghiên cứu lịch sử, trau dồi học thức và cũng để giãi bày tâm sự. Thế rồi cảnh ấy cũng hiện ra:

Theo cánh buồm lướt nhẹ, khách từ từ qua từng điểm rồi đến với sông Bạch Đằng. Và một cảnh tượng ngỡ ngàng hiện ra trước mắt: một khung cảnh tuyệt đẹp của mùa thu. Bút pháp miêu tả đầy lãng mạn, một bức tranh thủy mặc trên dòng sông đẹp ở từng đường nét. Có cái bát ngát sóng kình muôn dặm của một Bạch Đằng không bao giờ ngơi nghỉ, có cái thướt tha của những con thuyền như đuôi trĩ một màu và cảnh trời, sắc nước mênh mông như hòa lẫn vào nhau của một Bạch Đằng thơ mộng, hiền hòa. Phải là một tâm hồn yêu thiên nhiên, bằng con mắt của người nghệ sĩ và cả cái cảm quan đầy chất họa, Trương Hán Siêu mới vẽ được một bức tranh mùa thu đẹp như vậy. Cho nên cảm xúc cứ tự nó reo vui, thích thú trong tâm hồn của khách hải hồ. Có thể thấy, ngay ở những dòng đầu tiên của bài phú, khách đã tạo nên một tâm thế với tráng trí bốn phương rộng lớn của một nghệ sĩ lãng mạn, phóng khoáng và một bậc nho sĩ uyên bác.

Niềm xúc cảm trước thiên nhiên đẹp của bậc tao nhân, thi nhân có tráng trí hùng tâm ở trên khiến ta liên tưởng thấy bóng dáng của Nguyễn Bỉnh Khiêm “Thu ăn măng trúc đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” (Nhàn) nhưng họ Trương không bày tỏ đạo lý thanh cao như Trạng Trình; thấy cả bóng dáng Cao Bá Quát “Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng/ Phía nam núi Nam, sóng muôn đợt” (Bài ca ngắn đi trên bãi cát) nhưng môn khách Trần Quốc Tuấn không bộc lộ sự chua xót, bất đắc chí như Cao Tử. Trương Hán Siêu đến với thiên nhiên vừa để thỏa chí lãng du vừa để đáp ứng lòng mong mỏi hiểu biết nhiều hơn về phong cảnh nước mình và giãi bày niềm tự hào về những công hiển hách của cha ông ta trước đây. Bởi vậy, khách mới hiện lên chân dung của một trí thức yêu nước, nặng lòng với non sông. Nhưng ngay trong khoảnh khắc hiện tại, đối diện với Bạch Đằng, cảm xúc vui tươi trước vẻ đẹp của nó chẳng còn, bởi khung cảnh của chiến tích năm xưa giờ chỉ là:

Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu

…Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!

Bút pháp tả thực dường như đã vẽ nên một khung cảnh hoàn toàn đối lập. Khách nhìn về trận địa năm xưa sao ảm đạm, thê lương! Những bờ lau, bến lách qua hai từ láy san sát, đìu hiu mà đượm buồn. Dòng sông cuồn cuộn sóng khí thế năm xưa giờ chỉ còn giáo gãy, xương khô mà bi thảm. Trong khung cảnh ấy, tâm hồn của mặc khách kia bỗng trùng xuống, có ánh mắt u buồn, có cái nín lặng, cúi đầu mà thương tiếc, xót xa, ngậm ngùi. Cảm xúc thay đổi một cách nhanh chóng đầy thương cảm, bởi sức mạnh ăn mòn vạn vật của thời gian đã làm phai mờ dấu tích oai hùng một thời. Mà sau này nhà thơ Nguyễn Trãi cũng không tránh khỏi được điều đó khi tới đây:

(Cửa biển Bạch Đằng)

Thế là bao nhiêu thương cảm dồn nén ấy hóa ra lại đẩy lên trong lòng thi nhân một ước vọng được một lần nữa sống lại những khoảnh khắc oai hùng như thuở xưa. Bởi vậy mới có nhân vật các vị bô lão – những người trong cuộc, đã chứng kiến, đã tham gia, giờ đây tái hiện, phục chế lại quá khứ ấy để gieo vào lòng mặc khách niềm tự hào, kiêu hãnh của những chiến thắng lẫy lừng trên dòng sông lịch sử năm xưa. Ca ngợi sông Bạch Đằng là con sông huyền thoại, nổi tiếng nhất quả không sai. Vì hai trận đánh của Trùng Hưng nhị thánh và Ngô chúa năm xưa đã không cho kẻ thù một chút hiển vinh, làm lay động cả trời đất, vũ trụ là ở con sông ấy. Biết bao nhiêu cảm hứng lịch sử ùa về trong lời kể. Tuy nhân vật khách không hề tham gia vào câu chuyện của các vị bô lão, nhưng chúng ta vẫn nhận ra khách tuy ẩn đi mà vẫn hiện ra bằng cảm xúc. Lối kể mang đậm chất ước lệ, cường điệu pha lẫn cảm hứng vũ trụ đã tái hiện sống động, hoành tráng, hào hùng những trận đánh năm xưa.

Từ lúc được thua chửa phân, ánh nhật nguyệt phải mờ, trời đất sắp đổi đến khi kẻ thù tan tác tro bay, hoàn toàn chết trụi, nỗi nhục nhã muôn đời không rửa nổi. Đằng sau tất cả là niềm tự hào, hứng khởi của khách. Bao cảm xúc buồn thương trước đó tan biến, nhường chỗ cho sự kiêu hãnh, mãn nguyện, thán phục về một thuở quá đỗi hào hùng, về một truyền thống yêu nước bất diệt không bao giờ mất. Khách cứ thế mà đồng tình với cách cắt nghĩa nguyên nhân những thắng lợi ấy của các vị bô lão. Cũng là một người am hiểu, thấu trọn lẽ đời và cốt lõi lịch sử, khách nhận ra thiên có thời, địa có lợi nhưng nhân phải có hòa mới làm nên được thành công. Và khách dành trọn sự ngợi ca của mình đến những con người anh hùng ấy, đặc biệt là những bậc thánh đế minh vương biết thu phục lòng dân, giữ cuộc điện an bằng đức cao sáng chói mới thấm nhuần được non sông, mới ghi tạc vào lịch sử những chiến công hiển hách đến vậy. Lời ca cuối cùng của khách như âm vang theo nhịp sóng Bạch Đằng:

Phải chăng Bạch Đằng giang cuồn cuộn sóng chảy ra biển Đông cũng là lòng người thi nhân cuồn cuộn sóng? Có cái cuồn cuộn mạnh mẽ về một quá khứ xa xưa, nhưng cũng có cái cuồn cuộn cảm khái, ưu tư về thế thời, xã tắc lúc bấy giờ. Khách bởi vậy mà đã khơi dậy những giá trị lịch sử rất đỗi thiêng liêng của dân tộc, đề cao vị trí, vai trò của con người trong lịch sử nhưng cũng ngầm chuyển tải tâm sự thời thế mà ông chẳng thể nói ra.

Qua bút pháp rất đặc trưng của thơ văn trung đại, nhân vật khách đã được khắc họa thành công trong bài phú, trở thành một hình thượng nghệ thuật đặc sắc của văn học thời kỳ này. Có thể nói, khách đã hội tụ, kết tinh hết thảy những phẩm chất con người của chính tác giả. Khách đã khẳng định cái tôi đậm chất nghệ sĩ hoài cổ mà từ đó giúp Trương Hán Siêu chuyển tải những giá trị tư tưởng có tính lịch sử thiêng liêng và truyền thống vẻ vang của dân tộc trong bài phú.

Phân tích nhân vật Khách – Mẫu 8

Không biết tự bao giờ, sông Bạch Đằng đã đi vào thi ca như một nguồn cảm hứng vô tận. Trong bài “Bạch Đằng giang”, Nguyễn Sưởng có viết:

Bài thơ tuy ngắn nhưng thật cường tráng hào hùng, khắc họa một dòng sông son ghi dấu biết bao chiến công của lịch sử nước Việt. Cũng cùng nội dung đó nhưng Trương Hán Siêu lại sử dụng thể phú cổ thể rất độc đáo trong tác phẩm mang tên “Phú sông Bạch Đằng”. Bài phú được coi là một áng văn mẫu mực của văn học trung đại, thể hiện rõ nét hào khí Đông A. Hơn thế nữa, qua hình tượng nhân vật khách ta còn thấy được vẻ đẹp tráng chí của người anh hùng thời Trần cũng như âm hưởng chiến trận vang mãi đến muôn đời.

Như chúng ta đã biết, Trương Hán Siêu tự là Thăng Phủ, người làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh, nay thuộc Ninh Bình. Ông vốn là môn khách trong nhà của Trần Hưng Đạo, làm quan bốn đời vua Trần, từng giữ chức hàn lâm viện học sĩ. Về chính sự, theo lịch sử ghi chép, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông năm 1288, ông đã cùng Trần Quốc Tuấn thao lược, chỉ huy quân ta đại thắng dẹp tan kẻ thù xâm lược. Về văn học, số lượng tác phẩm của ông để lại không nhiều nhưng nổi bật nhất vẫn là “Phú sông Bạch Đằng”.

Nhân vật trữ tình hiện lên với hình ảnh của một tráng trí có tâm hồn phóng khoáng thích du ngoạn để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên. Dường như với người khách nhàn tản ấy thì không gì bằng việc chơi vơi trên sống nước, mải miết nhặt ánh trăng vàng, thả hồn với thiên nhiên, thắng tích cùng một tâm hồn đong đầy gió trăng. Thế nhưng cái thú tiêu dao đối với khách không chỉ là để thưởng thức vẻ đẹp của đất nước mà còn là nghiên cứu cảnh trí và bồi bổ tri thức. Người xưa có câu: “Nuốt tám chín cái đầm vân mộng vào bụng để đo chí làm trai”. Vậy mà du khách lại nói: “Đầm vân mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều / Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”. Có thể thấy rằng, nhân vật khách mang một khát vọng lớn lao, hoài bão cháy bỏng được đi nhiều nơi, trải nhiều điều. Tráng trí bốn phương, học vấn uyên thâm và ước vọng đó đồng thời cũng là của Trương Hán Siêu.

Điều đó được gợi lên qua hai loại địa danh: loại đi qua bằng sách vở, trí tưởng tượng như Cửu Giang, Nguyên Tương, Vũ Huyệt… và loại đi qua bằng thực tế trải nghiệm như Đông Triều Bạch Đằng, Đại Thần… Nhân vật khách học theo Tư Mã Thiên, coi những cuộc du ngoạn như để mở mang trí thức cho bản thân và lịch sử nước nhà. Khách không chỉ đến thăm danh lam thắng cảnh mà còn đặt chân đến những nơi được coi là chứng tích lịch sử để rồi được cảm nhận lịch sử trong một ko gian thực tế, khoáng đạt. Đó chính là minh chứng cho tình yêu thiên nhiên, thích du ngoạn của khách. Giống như Tản Đà từng viết: “giang hồ mê chơi quên quê hương”. Hơn nữa các không gian mà khách nói đến là những nơi rất rộng lớn, mênh mông, tự do và khoáng đạt khiến họ giương buồm giong gió lướt bể chơi trăng mải miết mà vẫn chưa thỏa. Qua đây, tác giả càng làm nổi bật cốt cách thanh cao của kẻ sĩ: yêu thiên nhiên, sống tự do chan hòa, coi thường địa vị tiền tài phù phiếm của đời người.

Trước vẻ thơ mộng của Bạch Đằng giang, khách phải dừng lại để ngắm cho kĩ và nghĩ cho thấu. Sông Bạch Đằng hiện lên với một bề rộng bát ngát và một chiều dài mênh mông. Thời điểm cuối thu, sóng biếc nhấp nhô cuồn cuộn. nước trời hòa cùng với màu xanh bao la. Những con thuyền nối đuôi nhau trên sông, theo sau những con sóng vẫy vùng. Quả là cảnh sông nước hùng vĩ lại nên thơ đến lạ! Tác giả đã dùng bút pháp tả thức, khắc họa cảnh núi non bờ bãi của Bạch Đằng giang. Phong cảnh ba thu hiu hắt đượm buồn như báo trước ngã rẽ của cảm xúc. Trong cái nên thơ trữ tình, sông Bạch Đằng cũng tiềm tàng những dấu tích của chiến công lịch sử: “bờ lau san sát bến lách đìu hiu/ sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”.

Cảm xúc về chiến trường xưa trong quá khứ khiến nhà thơ như nhìn thấy sóng chìm giáo gãy. Trên đống gò hoang là xương trắng phơi đầy của những người đã bỏ mình trong trận đánh lịch sử, giống như trong thơ của Nguyễn Trãi: “ngạc chặt kình băm non lởm chởm/ giáo chìm gươm gãy bãi giăng giăng”. Trương Hán Siêu như một người họa sĩ vẽ lên những nét bút rất mượt mà gợi cảm, ẩn dụ khiến người ta liên tưởng xa xôi và mới mẻ. Những câu văn biền ngầu như những con ngựa sóng đôi tạo nên hiệu quả nghệ thuật rất giá trị. Tự hào là thế nhưng đâu đó trong tác giả vẫn là nỗi tiếc nuối, cảm thương rất xúc động vì chiến trường oanh liệt giờ đã trơ trọi hoang vu. Thời gian đã phủ một lớp bụi mờ trên những trang sử vàng:”buồn vì cảnh thảm, đứng thẳng giờ lâu/ thương nỗi anh hùng đâu vắng tá”/ tiếc thay dấu vết luống còn lưu!”. Cũng trong mạch cảm xúc đó, nhân vật khách bâng khuâng một nỗi niềm tiếc thương, biết ơn các vị anh hùng xưa đã đem xương máu để đổi lấy hòa bình. Đứng trước dòng chảy lịch sử, khách cất lên lời ca đầy tình nghĩa thủy chung uống nước nhớ nguồn.

Lời ca của khách đã khép lại bài phú đồng thời ngợi ca hào khí Đông A, gợi lại không khí hào hùng của âm hưởng cuộc chiến. Qua nhân vật khách tác giả thể hiện niềm tự hào tự tôn dân tộc rất sâu sắc. Lời văn linh hoạt hàm súc đan xen yếu tố tự sự biểu cảm. Vì thế tác phẩm được coi là đỉnh cao của thể phú trong kho tảng văn học trung đại Việt Nam. Hơn thế nữa, bài phú còn gửi gắm nhiều quan niệm nhân sinh và triết lí tích cực rất cần thiết trong cuộc sống con người. Quả là áng văn hay sang mãi đến muôn đời!

Phân tích nhân vật Khách – Mẫu 9

Trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, ông cha ta đã ghi lên trang sử nước nhà những trận thuỷ chiến thành công vang dội. Trong số những dòng sông, cửa biển in đậm dấu ấn lịch sử, Bạch Đằng là con sông nổi tiếng nhất, oai hùng nhất. Ngợi ca con sông huyền thoại, Nguyễn Trãi viết Bạch Đằng hải khẩu, Nguyễn Sưởng sáng tác Bạch Đằng giang, và nổi bật hơn cả là Trương Hán Siêu với tuyệt tác Bạch Đằng giang phú. Xuyên suốt tác phẩm nổi bật lên hình tượng nhân vật khách đầy ấn tượng.

Nhà thơ Trinh Đường viết “Bạch Đằng, chói lọi vinh quang của đất nước Việt Nam anh hùng” bởi lẽ trên dòng sông thuộc tỉnh Quảng Ninh này đã diễn ra những trận đánh toàn thắng, để lại tiếng vang muôn đời. Năm 938, Ngô Quyền đuổi sạch quân Nam Hán. Năm 1288, vua Trần đánh tan giặc Mông – Nguyên. Để tái hiện lại những chiến tích này và bày tỏ lòng tự hào về một dân tộc tài trí, anh dũng, tráng sĩ họ Trương cho ra đời Bạch Đằng giang phú. Có lẽ bài phú được môn khách của Trần Hưng Đạo viết sau chiến thắng Mông – Nguyên khoảng 50 năm. Nổi bật trong bài phú là hình tượng nhân vật khách và nhân vật bô lão.

Cùng tạo nên tính khách quan cho tác phẩm nhưng trong khi nhân vật bô lão dẫn chuyện thì nhân vật khách lại đóng vai trò khẳng định tầm quan trọng của con người trong cuộc chiến và thể hiện cảm xúc của bài phú. Sự hoá thân tài tình của tác giả vào hình tượng khách góp phần không nhỏ tạo nên thành công của tác phẩm. Mở đầu Bạch Đằng giang phú, nhân vật khách hiện lên với tình yêu thiên nhiên, học vấn sâu rộng và tráng chí bốn phương:Khách có kẻ:

Lời giới thiệu cho thấy tâm hồn thi sĩ đầy lãng mạn trong nhân vật khách. Là một người ưa thích ngao du đó đây, nhân vật khách “tham quan” nhiều địa danh nổi tiếng của nước bạn như sông Nguyên, sông Tương, đầm Vân Mộng,… qua sách vở mà vẫn thấy chưa đủ với “tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”. Điều này chứng tỏ vốn kiến thức uyên thâm, lòng ham hiểu biết, mong muốn tìm tòi ở nhân vật này. Trương Hán Siêu “học Tử Trường chừ thú tiêu dao” đi du ngoạn thiên nhiên để hòa mình vào thắng cảnh, nghiên cứu lịch sử, trau dồi học thức, giãi bày tâm sự. Đến đây, người đọc bắt gặp bóng dáng của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong

hay Cao Bá Quát trong

Không bày tỏ đạo lý thanh cao như Trạng Trình, không bộc lộ sự chua xót, bất đắc trí như Cao Tử, tác giả đến với thiên nhiên với lòng mong mỏi hiểu biết nhiều hơn về phong cảnh đất nước mình, với niềm tự hào về những chiến công hiển hách của cha ông. Không còn trong những chuyến viễn du tưởng tượng, sông Bạch Đằng, một địa danh thưc hiện lên trước mắt nhân vật trữ tình:

Đứng trước di tích lịch sử, tâm trạng nhân vật trữ tình biến đổi từ tự hào, vui tươi đến u buồn ảm đạm.

Bạch Đằng đương ở tháng thứ ba của mùa thu, thấm đẫm sắc xanh của nước trời. Được ngắm con sông hùng vĩ, đẹp nên thơ, trong lòng tác giả không khỏi tấm tắc ca ngợi, phấn khởi và tự hào vì được sống trong cảnh thái bình. Đối lập với sự hùng tráng của thắng cảnh trong hiện tại là nét bi tráng của bãi chiến trường trong quá khứ. “Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.” Những từ láy gợi hình, gợi cảm khoác lên con sông Bạch Đằng vẻ đượm buồn, sức mạnh ăn mòn vạn vật của thời gian làm phai mờ dấu tích oai hùng một thời. Không những buồn, nhân vật trữ tình còn hết sức chua xót và thương cảm bởi hậu quả kinh khủng mà chiến tranh để lại trên dòng sông lịch sử: “Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”. Con sông Bạch Đằng đã nhấn chìm bao xương máu, nuốt trôi bao sinh mạng của những nạn nhân trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Tác giả chỉ có thể ngậm ngùi:

Advertisement

Tâm trạng của Thăng Phủ bấy giờ cũng giống với tâm trạng của những thi sĩ đã từng tới đây. Nguyễn Trãi than: Việc trước quay đầu ôi đã vắng Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng.Sau khi lắng nghe những lời kể chân thực và sinh động của các bô lão về hai trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng, nhân vật khách ca rằng:

Lời bình cuối bài phú đã nêu ra chân lý bất biến về vai trò và tầm quan trọng của con người trong cuộc chiến. Khác với quan điểm của Nguyễn Sưởng trong Bạch Đằng giang:

Trương Hán Siêu khẳng định yếu tố quyết định thắng lợi của quân ta trên sông Bạch Đằng là nhờ vào mưu lược, tài trí của hai vị vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và sự anh dũng, xả thân vì nghiệp lớn của những tướng sĩ, đặc biệt là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Khi giặc đến, vua hỏi Trần Hưng Đạo nên làm thế nào, ông tâu “Năm nay thế giặc nhàn”. Cái “nhàn” ấy là sự đúc kết kinh nghiệm từ hai cuộc kháng chiến trước, là đoàn kết sức mạnh toàn dân tộc, là biết khoan thư sức dân.

Qua đó ta thấy, người đứng đầu một nước không chỉ vận dụng cái tài để bài binh bố trận trên sa trường mà còn lấy chữ “đức” để trị dân: “Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”. Đức độ của nhà vua không chỉ thể hiện chốn điện các mà còn bộc lộ trên sa trường, như Quốc tộ đã viết:Vô vi nơi điện các Xứ xứ tức đao binh. Xuyên suốt bài phú, trong việc xây dựng hình tượng nhân vật khách, Trương Hán Siêu vận dụng nhiều biện pháp nghệ thuật. Trong lời giới thiệu đầu bài, tác giả kết hợp phương pháp liệt kê với bút pháp ước lệ khi nhắc đến những địa danh mà nhân vật trữ tình “đi” qua trong tưởng tượng:

Tiếp đến, khi miêu tả con sông huyền thoại trong quá khứ và hiện tại, ông sử dụng cả biện pháp tả thực và lối nói phóng đại cùng dùng những từ láy gợi hình như “bát ngát”, “thướt tha”, “san sát”, “đìu hiu”, qua từng câu câu chữ của Thăng Phủ, Bạch Đằng hiện lên đầy kiêu hùng, bi tráng. Chưa hết, góp phần tạo nên thành công cho Bạch Đằng giang phú là cách truyền tải cảm xúc theo từng khung cảnh, giọng điệu của nhân vật khách thay đổi từ vui tươi, hưng phấn, tự hào đến trầm buồn, bi thương và tiếc nuối. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng những câu văn linh hoạt và cách ngắt nhịp bằng chữ “chừ” – từ đệm đặc trưng của thể phú giúp lời lẽ thêm uyển chuyền, nhịp nhàng.

Qua hình tượng nhân vật khách trong Bạch Đằng giang phú, Trương Hán Siêu bộc lộ đôi nét về bản thân: lòng ham học hỏi, tráng chí bốn phương, tình yêu tha thiết với thiên nhiên. Bên cạnh đó, tác giả bày tỏ tâm trạng của ông, cũng như bao người dân đất Việt trước những chiến công hiển hách, oanh liệt trên con sông Bạch Đằng. Đó là niềm tự hào về cha ông, về dân tộc, là lòng yêu nước yêu quê tha thiết, là sự thương xót và nuối tiếc cho chiến tranh thảm khốc. Không chỉ có vậy, tác giả còn khẳng định vai trò của con người trong cuộc chiến, ngợi ca tài đức của các vị thánh quân.

Nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 10

Sông Bạch Đằng đã là một địa danh quen thuộc, là chứng nhân lịch sử đã viết lên nhiều mốc son chói lọi trong những trang sử vẻ vang của dân tộc, chính vì thế sông Bạch Đằng đã khơi gợi nhiều cảm hứng cho nhiều thi nhân văn sĩ, cho ra đời những tác phẩm khá nổi tiếng. Một số tác phẩm ví như Bạch Đằng giang của Trần Minh Tông, Bạch Đằng giang phú của Nguyễn Mộng Tuân hay Bạch Đằng giang của Nguyễn Xưởng,… Trong đó phải kể đến một tác phẩm thuộc thể loại phú rất nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam ấy là bài Phú sông Bạch Đằng của tác giả Trương Hán Siêu. Phần đầu của tác phẩm nổi lên hình tượng của và cảm xúc của nhân vật “khách” khởi đầu cho cả tác phẩm phú với lối đối đáp “chủ-khách”.

Trương Hán Siêu (?-1354), quê ở huyện Yên Ninh nay thuộc thành phố Ninh Bình, ông là một nhà văn hóa kiệt xuất của thời trung đại đồng thời cũng một nhà chính trị xuất sắc dưới thời Trần. Ông vốn là môn khách của Trần Hưng Đạo, trong suốt 4 đời vua Trần ông luôn được giao phó những chức vụ quan trọng, ông cũng có nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 2 và lần 3. Về sự nghiệp văn chương, hiện còn lưu giữ 17 bài thơ và hai tác hẩm văn xuôi, trong đó xuất sắc nhất được gọi là kiệt tác là bài Phú sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu được các vua Trần rất mực kính trọng, tôn gọi là thầy chứ không gọi bằng tên húy, khi mất ông đã được truy phong là Thái bảo, Thái phó thờ ở Văn miếu Quốc tử giám.

Phú sông Bạch Đằng là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Trương Hán Siêu, được đánh giá là tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lý – Trần, là đỉnh cao nghệ thuật của thể loại phú trung đại, tác phẩm còn được tôn vinh là áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học Việt Nam. Không rõ tác phẩm được sáng tác năm nào, nhưng theo 1 số nghiên cứu thì bài phú được sáng tác khoảng sau chiến thắng quân Mông – Nguyên 50 năm, khi nhà Trần bắt đầu có những dấu hiệu suy thoái.

Trong bài hình tượng nhân vật “khách” xuất hiện đầu tiên với những chuyến du ngoạn trên 2 loại địa danh, thứ nhất là du ngoạn trên các địa danh nổi tiếng trong các điển cố của Trung Quốc: Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt. Đây đều là những danh thắng đẹp và rộng lớn của Trung Quốc, đến với các địa danh này, tác gỉa đã du ngoạn qua sách vở và thông qua trí tưởng tượng của mình. Thứ hai tác giả du ngoạn thực tế trên các địa danh của đất Việt: Cửa Đại Thanh, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, đều là những địa danh khoáng đạt rộng lớn, đẹp đẽ và đặc biệt là chúng đã từng ghi dấu son trong lịch sử. Chúng hiện lên trước mắt của Trương Hán Siêu với hai đặc điểm lớn, đầu tiên là sự thơ mộng hùng vĩ “Bát ngát sóng kình muôn dặm”, dưới tầm mắt tác giả những con sóng của sông Bạch Đằng đang liên tiếp trải dài đến vô cùng vô tận, cùng với đó từ “bát ngát” lại dễ khiến người ta liên tưởng đến sự rộng lớn, hùng vĩ của khung cảnh sông nước.

“Thướt tha đuôi trĩ một màu”, gợi ra hình ảnh những con thuyền nối đuôi nhau qua lại trên sông, thật mềm mại, duyên dáng và yểu điệu, gợi ra sự thơ mộng của dòng sông Bạch Đằng vốn đã rất hùng vĩ, mênh mông. Bên cạnh sự thơ mộng, hùng vĩ, nhân vật “khách” còn cảm nhận được cái đìu hiu, lạnh lẽo thể hiện ở hình ảnh “Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu”, không một bóng người. Thêm câu “Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”, hợp lại khung cảnh hiện lên lại mang thêm màu sắc thê lương, buồn bã, đầy những hoài niệm.

Như vậy qua những cuộc du ngoạn, ta dễ dàng nhận thấy nhân vật “khách” là người có tráng chí bốn phương, cũng là người có tâm hồn thơ mộng, khoáng đạt ham thích du ngoạn, mở rộng tầm mắt, với một tâm thế tự nguyện và say sưa, chủ động, “tiêu dao” thảnh thơi đi đây đi đó, không hề có chút vướng bận ngoài thân. Nhân vật “khách” du ngoạn có nhiều mục đích, trước hết là thưởng ngoạn những cảnh sắc tuyệt vời của non sông, sau đó là nghiên cứu cảnh trí đất nước để bồi bổ kiến thức cho bản thân, điều mà “khách” học theo nhà sử gia nổi tiếng Tư Mã Thiên của Trung Quốc. Có thể thấy rằng hình tượng “khách” mà tác giả gây dựng ở đầu bài chính là một phân thân của tác giả, trong bóng dáng của khách ta thấy được bóng dáng của Trương Hán Siêu.

Nhân vật “khách” khi đứng trước những địa danh của đất Việt có nhiều tâm trạng và cảm xúc. Trước hết là nỗi vui mừng trước cảnh đẹp của sông nước vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đó còn là niềm tự hào không giấu nổi trước dòng sông ghi dấu những chiến công oanh liệt trong lịch sử dân tộc. Bên cạnh đó tác giả còn bộc lộ trực tiếp những buồn thương, nuối tiếc trước chiến trường xưa oanh liệt nay chỉ còn trơ trọi lại nỗi hoang vu và hiu quạnh khôn xiết, anh hùng nay đã mất, chỉ còn lại những dấu vết cũng sắp sửa phai mờ.

Khách “đứng lặng giờ lâu”, không giấu nổi sự bâng khuâng, hụt hẫng, trống trải, tâm trạng khách có sự thay đổi từ hướng ngoại, phơi phới, sôi nổi vì cảnh sắc nay đã chuyển sang hướng nội, buồn thương nuối tiếc trước dòng chảy lạnh lùng của thời gian, lịch sử, đã phủ mờ lên cảnh cũ người xưa. Ngày nay, chiến trường xưa vốn oanh liệt, nay chỉ còn bờ lau, bến lách chỉ còn sông chìm, giáo gãy chỉ còn “gò đầy xương khô”, những anh hùng một thuở lưu danh trong sử sách những ngày hôm nay “đâu vắng tá” đều đã trở thành người thiên cổ. Đó cũng là những nỗi lo lắng tiềm ẩn, của một chí sĩ yêu nước trước thực cảnh của đất nước vào những năm cuối thời Trần.

Nhân vật “khách” cũng là hiện thân của Trương Hán Siêu, trước tình hình đất nước đang trên đà suy vong, khi trở về thăm lại sông Bạch Đằng, bỗng chốc nảy sinh nhiều cảm xúc, mà phần nhiều đều xuất phát từ lòng yêu nước thương dân, nỗi lo cho vận mệnh của dân tộc của một nguyên lão 4 triều. Bên ngoài là cái vẻ thảnh thơi ngắm nhìn cảnh sắc hùng vĩ thơ mộng của Đại Việt ta, nhưng ấp ủ trong ấy là bao nỗi lòng hoài niệm, tiếc thương những ngày đất nước thật thái bình thịnh trị, quân đội hùng mạnh, viết nên những trang sử hào hùng. Nhưng giờ cảnh còn người mất, khiến tác giả không khỏi bâng khuâng khỏi lặng người, như vậy mạch cảm xúc tâm trạng của nhân vật “khách” chính là tiền đề khởi nguồn cho những phần tiếp theo của bài phú.

Nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 11

Phú sông Bạch Đằng đã thể hiện lòng yêu nước và niềm từ dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lý nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Nổi bật trong tác phẩm là hình tượng nhân vật khách.

Nhân vật “khách” chính là lời tự xưng của tác giả, tạo ra được lối đối đáp của “chủ – khách” thường dùng trong thể phú. Trong bài nhân vật khách xuất hiện với những chuyến du ngoạn. Đầu tiên là chuyến du ngoạn trên các địa danh nổi tiếng trong các điển cố của Trung Quốc: Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt. Đây đều là những danh thắng đẹp và rộng lớn của Trung Quốc. Thứ hai là các địa danh của đất Việt: Cửa Đại Thanh, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng. Đây đều là những địa danh khoáng đạt rộng lớn, đẹp đẽ và đặc biệt là chúng đã từng ghi dấu son trong lịch sử. Thiên nhiên hiện lên trước mắt nhân vật khách khoáng đạt, rộng lớn. Qua đó, nhân vật này hiện lên là người có tráng chí bốn phương. Cũng là người có tâm hồn thơ mộng, khoáng đạt ham thích du ngoạn. Như vậy, hình tượng “khách” mà tác giả gây dựng ở đầu bài chính là một phân thân của tác giả, trong bóng dáng của khách ta thấy được bóng dáng của nhà thơ.

Ở đoạn tiếp theo, khi đứng trước thiên cảnh sắc thiên nhiên sông Bạch Đằng, nhân vật khách bộc lộ niềm vui mừng trước vẻ đẹp hùng vĩ vừa thơ mộng. Đó cũng là niềm tự hào không giấu nổi trước dòng sông ghi dấu những chiến công oanh liệt trong lịch sử dân tộc. Không chỉ vậy, nhân vật khách còn bộc lộ trực tiếp những buồn thương, nuối tiếc trước chiến trường xưa oanh liệt nay chỉ còn trơ trọi lại nỗi hoang vu và hiu quạnh khôn xiết, anh hùng nay đã mất, chỉ còn lại những dấu vết cũng sắp sửa phai mờ. Khách đứng trước sông Bạch Đằng hàng giờ, không giấu nổi sự hụt hẫng, trống trạng. Tâm trạng lúc này của khách có sự thay đổi từ hướng ngoại và sôi nổi sang hướng nội và buồn thương nuối tiếc trước dòng chảy lạnh lùng của thời gian, lịch sử:

Chiến trường oanh liệt khi xưa, ngày nay chỉ còn lại bờ lau, bến lách, sông chìm, giáo gã. Những vị anh hùng lưu danh sử sách cũng chỉ còn được lưu danh trong thiên cổ. Qua đó, nhà thơ gửi gắm nỗi niềm lo lắng của một người chí sĩ yêu nước trước hoàn cảnh đất nước cuối thời Trần lúc bấy giờ.

Cuối cùng, hình tượng “khách” còn được xuất hiện ở cuối tác phẩm qua những lời ngợi ca hô ứng với lời ca ngợi của các bô lão. Nhân vật khách đã cụ thể hóa chân lý của các bô lão nêu ở trên

Hai vị anh hùng được nhắc chính là Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông sẽ lưu danh muôn thuở, tiếng thơm lưu truyền mãi muôn đời. Nhân vật khách đã ca ngợi dòng sông Bạch Đằng ghi dấu những chiến công anh hùng suốt chiều dài lịch sử đất nước.

Hình tượng nhân vật khách được xây dựng trong tác phẩm Phú sông Bạch Đằng hay cũng chính là đại diện cho Trương Hán Siêu. Những nỗi niềm mà nhân vật khách gửi gắm hay cũng chính là tiếng lòng của chính nhà thơ. Phú sông Bạch Đằng quả là một tác phẩm chứa đựng những giá trị cao đẹp.

Tập Làm Văn Lớp 5: Hãy Tưởng Tượng Và Tả Lại Một Nhân Vật Trong Truyện Em Đã Đọc Dàn Ý &Amp; 18 Bài Văn Tả Nhân Vật Trong Truyện

Dựa vào những truyện đã đọc, đã học, các em hãy tả nhân vật cô Tấm, Cô bé Lọ Lem, Nàng Tiên Ốc, Mị Nương, Thạch Sanh, Ông Bụt, Nàng tiên cá, Bà tiên… thật hay, tích lũy thêm thật nhiều vốn từ, để ngày càng học tốt phân môn Tập làm văn lớp 5.

Tưởng tượng và tả lại một nhân vật trong truyện em đã đọc

Dàn bài tả một nhân vật trong truyện em đã đọc

Tả nhân vật Mị Nương

Tả bà lão trong Nàng Tiên Ốc

Tả nhân vật Người con trong Bông hoa cúc trắng

Tả nhân vật Thạch Sanh

Tả nhân vật Ông bụt trong Cây tre trăm đốt

Tả nhân vật Bà Tiên trong Cô bé Lọ Lem

Tả nhân vật Nàng tiên Cá

Tả nhân vật Cô Tấm (6 mẫu)

Tả nhân vật Nàng lọ lem (3 mẫu)

Tả nhân vật Nàng tiên Ốc (2 mẫu)

Dàn bài tả một nhân vật trong truyện em đã đọc

1. Mở bài: Giới thiệu nhân vật mà em định tả (Nàng tiên Ốc) – có thể giới thiệu qua tác phẩm, tác giả của truyện.

2. Thân bài:

a. Tả bao quát hình dáng nhân vật:

– Chọn tả đặc điểm nổi bật nhất:

– Nàng tiên Ốc: xinh đẹp, vóc dáng sang quý như tiểu thư khuê các, nàng mặc áo xanh như màu vỏ ốc.

b. Tả chi tiết:

– Khuôn mặt nàng tiên: thon thon hình trái xoan, mắt to, có ánh nhìn dịu dàng. Tóc nàng đen nhánh, cài trâm gọn gàng. Trên khuôn mặt trắng hồng, môi nàng tiên đỏ như son và đôi mày lá liễu cong cong của nàng làm đôi mắt dịu dàng hẳn đi.

– Dáng đi của nàng tiên; nhanh nhẹn, uyển chuyển.

– Nàng tiên làm việc rất nhanh và gọn gàng.

– Nàng tiên Ốc giàu lòng thương người nghèo khổ nên hằng ngày nàng giúp bà lão công việc nhà.

– Em ao ước được gặp nàng tiên Ốc.

– Liên hệ thực tế:

+ Ngày nay, các nữ điều dưỡng ở bệnh viện cũng là những nàng tiên giúp người chữa bệnh.

+ Hoa hậu và những hoạt động từ thiện của họ cũng giúp ích cho đời.

3. Kết luận.

– Nàng tiên Ốc là người nhân hậu.

– Cô tiên Ốc trong tâm trí chúng em dường như đã trở thành người thật chứ không phải nhân vật trong truyện.

Tả nhân vật Mị Nương

Trong môn Tiếng Việt của Tiểu học, em đã được học và được tìm hiểu rất nhiều những câu chuyện hay và có ý nghĩa. Trong những câu chuyện đó em thích nhất là nhân vật Mị Nương trong truyền thuyết “Sơn Tinh Thủy Tinh”.

Mị Nương là con gái của vua Hùng vương thứ mười tám, nàng là một công chúa với vẻ đẹp tuyệt sắc. Dáng người nàng thon thả, yểu điệu tựa cành liễu. Mị Nương nàng sở hữu làn da trắng ngần như những bông tuyết tinh khôi rơi trên đỉnh ngọn núi cao kia. Khuôn mặt trái xoan của nàng luôn mang một vẻ e thẹn có thể đánh đổ trái tim bất cứ chàng trai nào.

Mái tóc nàng đen nhánh, đổ dài như dòng suối mát tạo cho nàng vẻ thùy mị và dịu dàng đến không ngờ. Sống mũi dọc dừa cao thẳng, đôi mắt bồ câu xinh đẹp cùng đôi môi hồng nhuận như bông hoa đào vào mùa xuân kết hợp hài hòa với nhau. Đôi mắt của nàng như biết nói biết cười, sinh động và linh hoạt nhưng lại làm cho người đối diện không cảm thấy chán ghét, mà ngược lại còn có vẻ thân thiện cùng gần gũi.

Mị Nương có một giọng nói trong trẻo như tiếng chuông ngân, mỗi khi nàng cất tiếng hát thì kể cả những chú sơn ca cũng phải dừng lại để thưởng thức giọng hát êm dịu ấy. Mị Nương sở hữu một đôi bàn tay ngọc ngà với những ngón tay tháp bút hồng hào, mỗi khi nàng chạm tay vào một bông hoa, bông hoa cũng dường như cảm thấy xấu hổ khi đối diện với vẻ đẹp của nàng. Chính vì vẻ đẹp ấy mà không biết bao nhiêu chàng trai đã đến xin cầu hôn công chúa khi nàng đến tuổi cập kê.

Theo truyền thuyết, trong tất cả những người đến cầu hôn nàng có hai người được mệnh danh là “vị thần của biển khơi” và “vị thần núi Tản Viên”. Phải, đó không ai khác chính là Sơn Tinh và Thủy Tinh, sau cả tháng trời đánh nhau ác liệt cuối cùng Sơn Tinh cũng đưa được Mị Nương về núi, đánh bại Thủy Tinh. Hai người bọn họ ai cũng muốn có được Mị Nương còn không phải vì sắc đẹp của nàng sao? Không những có được sắc đẹp trời cho mà Mị Nương còn rất giỏi cầm kì thi họa, nữ công gia chánh.

Mị Nương nàng là một một người giản dị, không ích kỉ, không vụ lợi, trong sáng và biết lo lắng cho mọi người. Nàng luôn giúp đỡ những người dân trong thành bằng tất cả năng lực của mình nhưng lại chưa từng đòi hỏi họ phải cho nàng một thứ gì, nàng không kiêu ngạo, không kênh kiệu, luôn kính trên nhường dưới. Mị Nương là một nàng công chúa mẫu mực và nhân hậu mà dân chúng vô cùng yêu quý và biết ơn.

Em rất yêu quý nàng công chúa Mị Nương bởi nàng vừa xinh đẹp lại nết na và vô cùng nhân hậu. Em mong một người như nàng sẽ có một cuộc sống thật hạnh phúc bên đức lang quân cùng những đứa con dễ thương.

Tả bà lão trong Nàng Tiên Ốc

Trong truyện Nàng tiên Ốc, ngoài nàng tiên xinh đẹp, duyên dáng và chăm chỉ giỏi giang thì em rất ấn tượng với hình ảnh bà lão nông dân nghèo. Trong một lần dạo chơi nơi khu vườn cổ tích của các nhân vật, em được gặp lại bà trong đó.

Bà lão đã 75 tuổi rồi nhưng trong vẫn còn rất nhanh nhẹn, khoẻ mạnh. Bà có dáng người nhỏ bé, những bước chân của bà đầy vội vã. Khuôn mặt bà đã in hằn những nếp nhăn, trên vầng trán lộ rõ những vết đồi mồi của tuổi già. Mái tóc bà bạc trắng như cước, miệng móm mém nhai trầu tươi khiến hàm răng đen bóng. Đôi mắt bà trầm tư nhưng đầy ấm áp, bà cười rất hiền từ và phúc hậu. Bà lão thường mang chiếc quần bà ba đen xắn gối, chiếc áo bạc màu vì dãi nắng dầm sương nổi lên những mảnh vá. Nhìn bà em thấy thương vô cùng, chiếc áo mỏng manh ấy làm sao có thể giữ ấm cho bà những ngày trời trở đông rét mướt. Giá mà lúc đó em có một chiếc áo bông em sẽ gửi tặng bà.

Bà làm công việc bắt ốc, mò cua để kiếm sống. Ngày ngày bà đều ra đồng, tối tối lại trở về nhà, cứ thế bà sống gắn bó với ruộng đồng, với làng quê. Tuy nghèo khó những bà lão rất tốt bụng, có lần đi bắt ốc, bà bắt được một con ốc rất xinh đẹp, vỏ xanh biếc và sáng bóng, thấy nó bà không đành bán mà đem nó về thả vào trong chiếc chum nơi góc nhà. Thế là từ độ ấy, ngày nào đi làm về bà cũng đều ngạc nhiên đến sửng sốt khi thấy nhà cửa không dọn cũng sạch sẽ, lợn chưa ăn đã nằm no ngủ, chẳng kêu la inh ỏi như ngày thường, cơm chưa nấu đã được soạn sẵn, vườn chưa làm đã sạch cỏ.

Rồi một ngày, bà lão quyết định sẽ tìm bằng được người tốt bụng đã giúp đỡ mình. Sáng hôm ấy, như thường lệ, bà trở dậy thật sớm, mang theo giỏ, đội chiếc nón ra sông bắt tép, mò ốc. Giữa trưa, bà trở về nhà bất ngờ và lặng lẽ. Núp sau bụi chuối ngoài vườn, bà cẩn thận dò xét, thấy một cô gái trẻ đẹp bước ra từ chum nước rồi nhanh chóng dọn nhà, nấu bếp. Bà lão vừa ngạc nhiên, vừa chạy vội đến bên chụp nước đập vỡ chiếc vỏ ốc kìa. Cô gái bất ngờ định quay lại những không kịp nữa rồi. Bà lão nắm tay cô gái ấy rồi ân cần bảo:

– Con gái tốt bụng ngày ngày giúp lão đây ư?

Nàng tiên lúng túng trả lời:

– Dạ….dạ thưa bà….con giúp bà để đền ơn bà đã cứu sống con ạ….

Bà cười phúc hậu, nhìn nàng âu yếm rồi bảo:

Nàng tiên Ốc gật đầu đồng ý, đôi môi nở nụ cười vui mừng đón nhận. Từ đấy hai người sống bình yên và an vui bên nhau.

Tả nhân vật Người con trong Bông hoa cúc trắng

Từ bé em đã được mẹ kể cho em nhiều câu chuyện cổ tích. Nhưng đến bây giờ em vẫn thích truyện “Bông hoa cúc trắng” dù em đã đọc qua nhiều lần. Em rất thích nhân vật người con.

Bạn nhỏ có một thân hình thon gọn và dáng cao. Khuôn mặt của bạn nhỏ biểu lộ sự hiền lành. Bạn nhỏ có mái tóc dài và rất suôn mượt, hàm răng của bạn nhỏ trắng như sứ. Bạn nhỏ có một đôi mắt trắng tinh. Bạn sống cùng mẹ trong một túp lều tranh dột nát và đó là một bé gái vô cùng hiếu thảo. Thật không may, mẹ của cô bé lại bị bệnh rất nặng nhưng vì nhà nghèo nên không có tiền mua thuốc chữa khiến cô bé buồn lắm. Một lần cô bé đang ngồi khóc bên đường thì bỗng có một ông lão đi qua thấy lạ bèn dừng lại hỏi. Khi đã rõ sự tình ông nói với cô bé:

Cháu hãy vào rừng và đến bên gốc cây cổ thụ to nhất, hái lấy một bông hoa duy nhất trên đó. Bông hoa ấy có bao nhiêu cánh thì tức là mẹ cháu sống được bằng đấy ngày.

Cô bé liền vào rừng và rất lâu sau mới tìm thấy bông hoa trắng đó, phải khó khăn lắm cô bé mới trèo lên được để lấy bông hoa nhưng khi đếm chỉ có một cánh, hai cánh, ba cánh bốn cánh. “Chỉ có bốn cánh hoa là sao chứ? Chẳng nhẽ mẹ cô chỉ sống được bằng đấy ngày thôi sao?”, cô bé tự hỏi.

Không đành lòng cô bé liền dùng tay xé nhẹ dần từng cánh hoa lớn thành những cánh hoa nhỏ và bông hoa cũng theo đó mà nhiều cánh dần lên đến mức không còn đếm được nữa.

Từ đó người đời gọi bông hoa ấy là bông hoa cúc trắng để nói về lòng hiếu thảo của cô bé đó dành cho mẹ mình. Qua câu chuyện, các bạn đã thấy được tình thương của người con đối với mẹ là bao la và rộng lớn thế nào ? Chúng ta sẽ noi gương cao đẹp của bạn nhỏ.

Tả nhân vật Thạch Sanh

Có lẽ ai đã đọc truyện “Thạch Sanh” đều nhớ đến cây đàn và niêu cơm đất thần kì. Nó đã trở thành biểu tượng gắn với hình ảnh Thạch Sanh. Mỗi lần đọc xong truyện, gấp sách lại, em có cảm giác như nhân vật đang bước ra từ câu chuyện, gần gũi và chân thật.

Thạch Sanh cao lớn, vạm vỡ với những bắp tay cuồn cuộn. Thân hình cân đối, cường tráng càng làm tăng thêm vẻ đẹp. Thạch Sanh đóng một cái khố, trên đầu quấn một chiếc khăn nâu, vai đeo cung tên đi từ trong rừng ra với những bó củi to trông như lực sĩ của rừng xanh.

Thạch Sanh mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Anh ấy không phải là con người bình thường mà là thái tử, con Ngọc Hoàng xuống đầu thai làm con của một đôi vợ chồng già ở Cao Bình. Nguồn gốc cao quý và khác thường ấy như điềm báo cho ta biết cuộc đời Thạch Sanh sẽ không phẳng lặng mà gặp nhiều thử thách, chông gai.

Thạch Sanh là một chàng trai tốt bụng, chăm chỉ và tài giỏi. Vì thật thà lắm nên bao lần anh bị Lí Thông lừa mà không hề hay biết. Ở cạnh Lí Thông gian xảo, anh đã sống chân thật hết mình, giúp hắn biết bao việc. Không chỉ có vậy, lúc nào chàng trai ấy cũng sẵn lòng giúp đỡ người khác khi hoạn nạn, chẳng từ gian nguy.

Thạch Sanh đã giết được chằn tinh không chỉ cứu được mẹ con Lí Thông mà còn giúp được dân làng thoát khỏi nanh vuốt độc ác của đại bàng khổng lồ. Và hơn cả, Thạch Sanh đã đánh thắng được quân mười tám nước chư hầu bằng trí thông minh của mình mà không tốn một hòn tên mũi đạn. Những chiến công oai hùng đó của Thạch Sanh thật đáng ngưỡng mộ.

Trải qua nhiều khó khăn, Thạch Sanh càng thể hiện được bản lĩnh, tài năng của mình. Chấp nhận đi canh miếu thờ, rồi gặp chằn tinh, anh đều sẵn sàng chiến đấu mà không hề run sợ. Thấy đại bàng bắt công chúa, Thạch Sanh dũng cảm lần theo dấu vết rồi xin xuống hang đánh đại bàng giải cứu.

Khi bị vu oan tội ăn cắp của cải nhà vua và bị bắt vào ngục tối, Thạch Sanh mang cây đàn ra đánh, tiếng đàn đã đến được với công chúa, anh tự giải cứu được chính mình. Thử thách mười tám nước chư hầu đã thể hiện rõ nhất tài năng cũng như tấm lòng nhân ái của chàng dũng sĩ. Niêu cơm thần kì đã giúp Thạch Sanh làm cho các binh lính tâm phục khẩu phục mà rút về.

Trong niềm vui hân hoan chiến thắng ta càng thấy Thạch Sanh đẹp hơn bao giờ hết, vẻ đẹp hài hòa giữa ngoại hình với tâm hồn và tài năng. Thạch Sanh mãi là người dũng sĩ của các bạn nhỏ các thế hệ từ xưa cho đến mãi về sau. Dù đọc bao nhiêu câu chuyện cổ tích khác nhưng hình ảnh Thạch Sanh vẫn mãi đọng lại trong tâm trí em.

Tả nhân vật Ông bụt trong Cây tre trăm đốt

Trong kho tàng các câu chuyện dân gian Việt Nam, có rất nhiều nhân vật quen thuộc, mỗi nhân vật đều đều mang lại cho ta một bài học cuộc sống thật sâu sắc. Và nhân vật mà em yêu thích nhất đó chính là nhân vật ông bụt trong truyện “Cây Tre trăm đốt”.

Ngày xưa có một anh trai cày khỏe mạnh, chăm chỉ. Vì nhà nghèo nên phải đi làm thuê cho lão bá hộ. Vốn tính keo kiệt, bủn xỉn, và nham hiểm, một hôm hắn gọi anh trai lại và nói: Con hãy ráng làm việc đi, ta sẽ gả con gái cho. Tưởng thật, anh trai cày lao vào làm việc quần quật.

Hai năm sau, nhờ công của anh mà lão bá hộ tậu được rất nhiều nhà cửa, ruộng vườn. Hắn lại gọi anh lại và bảo: “Hai năm qua con đã làm việc thật vất vả, nay ta se gả con gái cho con. Nhưng con hãy vào rừng kiếm cho bằng được cây tre trăm đốt”. Anh trai cày liền chạy vội vào rừng, chặt mãi chặt mãi mà không thấy.

Biết bá hộ lừa mình, anh òa khóc. Trong lúc đó, lão bá hộ cho người chuẩn bị hôn lễ cho con mình và cậu con trai nhà giàu làng bên. Bỗng lúc đó, một làn khói trắng tỏa ra che lấp cả mặt trời chói chang. Đằng xa, một ông bụt đầu tóc bạc phơ bắt đầu hiện ra. Ông có khuôn mặt hình chữ điền cùng chiếc cằm chẻ trông rất hiền lành và cái tráng cao chứa đầy những nếp nhăn hằn sâu đến lạ.

Phía sau khóe mắt hình chân chim là đôi mắt to tròn, luôn ánh lên một cái nhìn nhân hậu. Nằm cân đối giữa hai gò má đồi mồi đã nhăn nhúm đi nhiều là một chiếc mũi khoằm trông rất ngộ nghĩnh. Hàm răng ông tuy không được trắng bóng nhưng lại đều như hạt bắp, nằm ẩn sau đôi môi đầy đặn, hồng hào.

Nhưng điều khiến ông trông thật gần gũi là hàm râu dài đến ngực và cũng trắng tinh một màu.Tất cả tạo cho ông một cái nhìn tuy đơn sơ như những cụ già Việt Nam nhưng lại mang đậm tính thương người, sẵn sàng giúp đỡ họ khi gặp khó khăn, nguy hiểm. Ông khoác trên mình một chiếc áo trắng tinh luôn óng ánh dưới những tia nắng mặt trời và được tô điểm bằng những hình vẽ long, phụng.

Tay ông dài dài, lúc nào cũng phe phẩy cây phất trần trắng xóa như mái tóc của mình. Chân ông cao cao nhưng bước đi vẫn còn nhanh nhẹn. Thấy anh trai cày ngồi khóc ông bước đến cất một tiếng cười lớn. Tiếng cười lan rộng và xa đến mọi ngóc ngách của khu rừng. Rồi với một giọng nói trầm, ấm, ông hỏi: “Tại sao con khóc?”

Anh trai cày mếu máo kể lại hết mọi việc cho ông tiên nghe. Sau một hồi trầm ngâm ông bảo anh trai cày đêm một trăm đốt tre về và xếp thành một hàng dài. Thế rồi ông bắt đầu làm phép. Ông phất pha phất phới cây phất trần của mình, một làn gió mạnh bắt đầu thổi, cuốn phăng tất cả những lá cây rơi rụng trên đường. Một vầng hào quang bắt đầu xuất hiện sau lưng ông.

Ông hô: “Khắc nhập – khắc nhập”. Tiếng hô thật dõng dạc mà nghe đầy quyền năng. Những đốt tre bắt đầu bị hút vào với nhau tạo thành một cây tre trăm đốt. Một lần nữa, ông lại cất tiếng cười vang vọng cả núi rừng. Anh trai cày chưa kịp cảm ơn thì ông tiên đã hóa phép biến ra một làn khói trắng rồi bay về trời từ lúc nào không biết.

Ông cũng không quên căn dặn anh phải nhớ kĩ hai câu thần chú. Anh trai liền chạy về để cản buổi lễ thành hôn. Xấu hổ quá, hai vợ chồng lão phú hộ đành gả con cho anh trai cày. Và thế là hai người đã sống với nhau đến trọn đời.

Qua hình ảnh ông tiên trong câu chuyện này và nhiều câu chuyện khác nữa. Người xưa muốn khuyên dạy chúng ta: Ở hiền thì gặp lành, ở ác thì gặp ác. Ông tiên luôn là người xuất hiện để giúp đỡ những người nghèo khó trước sự tàn bạo của bọn phú hộ. Sau này, lớn lên, em sẽ kể cho con nghe các câu truyện dân gian này để chúng sẽ là người lưu giữ và bảo tồn văn hóa dân tộc.

Tả nhân vật Bà Tiên trong Cô bé Lọ Lem

Mỗi câu chuyện cổ tích đều mang đến cho ta những thông điệp sâu sắc về cuộc sống. Với tôi, hình ảnh bà Tiên trong truyện “Cô bé Lọ Lem” là hình ảnh gợi cho tôi khát vọng được sống đẹp, được sống trong một xã hội công bằng mà cái thiện chiến thắng cái ác.

Nhìn từ xa, bà chỉ nhỏ như một đốm sáng lân tinh có thể di chuyển trong không gian. Nhưng khi lại gần trông bà thật hồng hào, phúc hậu. Bà đội một chiếc vương miện nhỏ gắn những viên kim cương óng ánh. Khuôn mặt bà trắng hồng và dường như tỏa ra vòng hào quang của sự nhân hậu.

Đôi mắt bà sáng long lanh với những ánh nhìn như hàng nghìn vì sao trên trời. Nhưng đó là đôi mắt khi bà gặp người hiền lành và che chở cho những kẻ yếu đuối. Còn khi gặp kẻ xấu, đôi mắt bà rực lên ngọn lửa của sự căm thù như muốn thiêu cháy cái ác, cái xấu.

Bà thường khoác trên mình chiếc áo choàng trắng có đính những hạt cườm lóng lánh. Cũng như các vị tiên khác, bà có một đôi cánh nhỏ xíu lấp lánh sắc màu ở phía sau lưng. Bà có thể di chuyển trên không trung một cách dễ dàng. Sức mạnh huyền diệu của bà chính là cây đũa thần. Mỗi khi bà vung lên thì những bông tuyết sáng ngời bung tỏa ra.

Nhờ cây đũa thần kì đó mà nàng Lọ Lem xinh đẹp có mọi thứ để được đi dạ hội. Bà Tiên có tấm lòng tốt bụng, nhân hậu. Bà thường giúp đỡ những người nghèo khó. Nghe tiếng khóc của cô bé Lọ Lem, bà đã cưỡi đám mây hồng đến và hỏi vì sao cô bé khóc. Rồi bà nhẹ nhàng vung đũa thần và hô “úm ba la”. Hai anh chuột đang ăn vụng gần đó bỗng nhiên biến thành hai con bạch mã.

Còn thật kì lạ, quả bí đỏ thì biến thành cỗ xe lộng lẫy và anh mèo đang ngẩn ngơ khi thấy những chú chuột bỗng nhiên biến mất lại hiện ra thành những người lái xe ngựa. Lọ Lem đã có đủ thứ mình cần. Nhưng khi nhìn thấy bộ quần áo rách rưới của cô, bà lại giơ đũa thần lên và xoay người nhẹ nhàng biến thành một làn bụi hào quang. Tức thì, bộ quần áo rách rưới của Lọ Lem biến mất. Thay vào đó là một nàng công chúa xinh đẹp, lộng lẫy trong chiếc váy màu hồng có đính những hạt cườm lóng lánh.

Để trừng trị mẹ con dì ghẻ độc ác, cây đũa thần của bà quay tít, bà Tiên nổi giận, giọng bà rền vang cả đất trời. Rồi bà lấy đũa thần, biến mẹ con dì ghẻ thành hai con cóc và đày họ đến miền hẻo lánh. Sau đó, bà vui mừng tham gia đám cưới của Lọ Lem với hoàng tử.

Bà Tiên thật tốt bụng, đã giúp đỡ mọi người. Em rất yêu quý bà và mong một ngày không xa em cũng sẽ được bà giúp đỡ. Bà đã truyền cho em bài học sâu sắc về cuộc sống: ở hiền gặp lành, ác giả ác báo.

Tả nhân vật Nàng tiên Cá

Nàng tiên cá trong các câu chuyện cổ tích là một nhân vật được xây dựng lên bằng trí tưởng tượng của con người khiến ai cũng yêu mến.

Họ là những nữ nhân ngư vô cùng xinh đẹp và quyến rũ. Nửa thân trên mang hình dáng con người, nửa dưới là một chiếc đuôi lớn của loài cá. Chiếc đuôi của nàng dát đầy vảy xanh vàng óng ánh tỏa hào quang trong ánh mặt trời. Các mĩ nhân ngư sở hữu những mái tóc dài thướt tha trông rất dịu dàng và cuốn hút.

Khuôn mặt của nàng tiên cá đẹp như những thiên thần. Vẻ đẹp ấy khiến ai cũng mê mẩn. Làn da trắng hồng đã tôn lên vẻ đẹp ấy. Cặp mắt của các nàng xanh thẳm và sâu hun hút như đáy biển còn đôi môi luôn đỏ mọng quyến rũ, vẻ đẹp của các nàng đủ sức làm nghiêng ngả cả một thành trì, một vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành.

Theo truyền thuyết, nàng tiên cá là con gái vua Thủy Tề ngự trị dưới đáy biển sâu. Các nàng sống trong cung điện bằng ngọc trai và san hô lộng lẫy chỉ thỉnh thoảng vào những buổi sáng tinh sương hay chiều hoàng hôn muộn, các nàng lại rủ nhau ngoi lên mặt nước tìm các đảo nhỏ chơi đùa, hát ca.

Mỗi khi tiếng hát của các nàng vang lên mặt trời cùng nghiêng mình lắng nghe, mây ngừng trôi, gió ngừng thổi, chim ngừng hót, ngất ngây trước sự réo rắt, ngân nga của tiếng hát. Tiếng đàn lia của vị thần nghệ thuật A-pô-lông cũng không thể sánh bằng. Chính bởi sự kì diệu của giọng ca mà biết bao chàng thủy thủ đã sẵn sàng trầm mình xuống biển để tìm đến với các nàng.

Tưởng tượng ra hình ảnh nàng tiên cá, con người chắp cánh cho trí tưởng tượng bay xa và qua đó muốn giải thích cho sự biến mất của các con thuyền trên biển một cách bay bổng, lãng mạn, mang đậm tư duy thần thánh cổ xưa.

Tả nhân vật Cô Tấm Tả Cô Tấm – Mẫu 1

Em rất thích đọc truyện cổ tích. Và trong tất cả những câu chuyện cổ tích em từng đọc thì em ấn tượng nhất với nhân vật cô Tấm. Một nhân vật trong câu chuyện cổ tích Tấm Cám.

Cô Tấm có hoàn cảnh vô cùng đáng thương. Mẹ mất sớm cha cô đi lấy vợ hai. Nhưng chẳng bao lâu cha cô cũng qua đời. Cô ở với dì ghẻ và con riêng của dì ghẻ là Cám. Hai mẹ con Cám không yêu thương gì Tấm mà luôn tìm cách hãm hại cô. Dù chịu nhiều tủi hờn nhưng Tấm vẫn hết sức xinh đẹp lại nết na thùy mị.

Tấm có thân hình mảnh mai. Khuôn mặt trái xoan với làn da trắng nõn căng mọng. Đôi mắt bồ câu đen láy, trong vắt như hòn bi ve. Cặp lông mày lá liễu càng làm nổi bật hơn vẻ đẹp của đôi mắt ấy. Tấm có chiếc mũi dọc dừa, rất cân đối với khuôn mặt. Bên dưới chiếc mũi nhỏ nhắn đó là một đôi môi đỏ chúm chím. Tấm có một mái tóc dài mượt và đen láy, luôn được cô vấn lên gọn gàng cột lại bằng một chiếc khăn mỏ quạ truyền thống. Nhìn tổng thể Tấm chẳng khác gì một tiên nữ với một vẻ đẹp trong sáng và thành thiện.

Sống với mẹ con Cám Tấm phải làm việc quần quật cả ngày. Từ sáng sớm tinh mơ cho đến khi tối muộn. Có những hôm cô phải đi chăn trâu ở tận bên làng xa. Rồi phải đi mò cua bắt ốc. Tấm còn phải làm cả những phần việc của Cám do Cám lười mà đùn đẩy cho cô. Thế mà Tấm vẫn rất chi là siêng năng chăm chỉ, chẳng khi nào than phiền tới nửa lời. Vận chiếc áo tứ thân màu nâu cũ đã sờn bạc, cô lặng lẽ quét nhà, quét sân, chăm sóc vườn tược, tới cây bắt sâu, nấu cơm giặt giũ, lau chùi sắp xếp nhà cửa gọn gàng, ngăn nắp từ trong ra ngoài không có lấy một điểm gì chê được.

Tấm còn là một người có sức sống mạnh mẽ, sự sống của Tấm chính là sự sống của cái thiện trong xã hội, mặc dù bị mẹ con Cám hại chết hết lần này đến lần khác những Tấm vẫn hồi sinh, hóa thân thành cây con chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi và cuối cùng là quả thị. Và đến cuối cùng Tấm cũng có được hạnh phúc của chính mình khi được về sống với nhà vua. Và mẹ con Cám phải trả giá cho những hành động độc ác của chính mình.

Cô Tấm xinh đẹp, dịu hiền lại chịu thương chịu khó.Cô Tấm đẹp người đẹp nết ấy là biểu tượng của nhân dân Việt Nam. Qua truyện cổ tích Tấm Cám em càng hiểu hơn câu nói của dân gian “Ở hiền thì lại gặp hiền- Người ngay thì được Phật, Tiên độ trì”.

Tả Cô Tấm – Mẫu 2

Mỗi con người Việt Nam có ai lớn lên mà không gắn bó với những câu chuyện cổ tích. Khi còn bé, những câu chuyện cổ tích theo ta vào giấc ngủ, lúc trưởng thành, truyện cổ tích lại thành bài học theo ta suốt cuộc đời. Ta quên làm sao những nhân vật tuy chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng nhưng lại sống động lạ kì. Và trong tâm trí tôi, hình ảnh cô Tấm dịu hiền luôn để lại nhiều ấn tượng nhất.

Từ hồi còn nhỏ, câu chuyện cổ tích Tấm Cám đã luôn có sức hút đặc biệt đối với tôi. Tôi thương cô Tấm dịu hiền bao nhiêu thì căm ghét mẹ con Cám độc ác bấy nhiêu. Cô Tấm trong tâm trí tôi là một người con gái đoan trang, hiền lành, nết na. Cô có dáng người mảnh khảnh như cây mai, khuôn mặt tròn, đầy đặn, phúc hậu như trăng rằm.

Làn da của cô thì trắng như trứng gà bóc. Đôi mắt cô đen láy, cái nhìn ánh lên sự dịu dàng, hiền từ, giọng nói nhẹ nhàng, thanh thoát như tiếng chim hót buổi sớm mai. Trên người cô chỉ là bộ quần áo nâu giản dị nhưng không hề làm mất đi vẻ xinh đẹp vốn có.

Tấm không chỉ đẹp người mà còn đẹp nết. Từ nhỏ cô đã phải chịu nhiều thiệt thòi vì mẹ mất sớm, dì ghẻ thì chỉ yêu thương Cám và đối xử bất công với cô. Tấm phải làm việc vất vả từ sáng đến tối bởi dì ghẻ đầy đọa cùng đứa em ích kỉ đùn đẩy, tuy vậy, cô chẳng bao giờ thở than lấy một lời, cố nén tất cả nhẫn nhịn, uất ức vào trong lòng.

Tấm vừa là người con hiếu thảo, vừa là cô gái chăm chỉ, chịu thương chịu khó. Khi đã trở thành hoàng hậu, có một cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy, hằng năm, Tấm vẫn nhớ tới ngày giỗ bố, biết bố thích ăn trầu, Tấm trèo lên cây hái một buồng cau để thắp hương bố. Bị mẹ con dì ghẻ hãm hại hết lần này đến lần khác nhưng Tấm vẫn tái sinh một cách kì diệu, có lúc Tấm hóa thân thành con chim vàng anh, có lúc lại biến thành cây xoan đào, khung cửi, quả thị.

Cuối cùng, sau bao khó khăn, thử thách Tấm cũng có được hạnh phúc viên mãn, mẹ con dì ghẻ bị trừng trị thích đáng. Câu chuyện về cuộc đời cô Tấm làm em thấm thía hơn triết lí ở hiền gặp lành của ông cha ta. Những người hiền lành như cô Tấm dẫu có phải trải qua nhiều bất công, thử thách nhưng đến cuối vẫn sẽ có được một cuộc sống xứng đáng với những gì cô đã phải trải qua.

Cô Tấm hiền lành, chăm chỉ tiêu biểu cho những người nông dân thật thà, chất phác. Hình ảnh cô Tấm đã gắn liền với tuổi thơ của biết bao thế hệ, chiếm một vị trí quan trọng trong thời thơ ấu của mỗi người.

Tả Cô Tấm – Mẫu 3

Thế giới thần tiên trong trí tưởng tượng của trẻ em Việt Nam là một thế giới đầy màu sắc. Ở nơi thiên đường đó có cô Tấm dịu hiền, có anh Khoai chăm chỉ, cần cù và chàng Thạch Sanh khỏe mạnh, dũng cảm. Tuy nhiên, người mà những đứa trẻ chúng tôi thích nhất lại là ông Tiên – cụ già tốt bụng, luôn mang đến những điều ước màu nhiệm.

Trong trí tưởng tượng của tôi, ông tiên chắc cũng chẳng khác gì ông nội là mấy. Ông cũng có mái tóc trắng, búi củ tôi như các cụ ngày xưa. Ông có đôi mắt to, tròn nhìn hết cả thế gian xem ai khó khăn, đau khổ thì giúp đỡ. Đôi mắt ấy rất hiền hậu, nhân từ như chính con người ông.

Ông tôi ngày xưa có bộ râu dài đến rốn, bạc trắng nên tôi nghĩ bụt cũng vậy thôi. Da dẻ ông hồng hào, trắng trẻo vì ăn nhiều đào tiên trên thiên đình. Ông Tiên hay đi giúp đỡ người khác. Mỗi lần ông xuất hiện là lại có những đám khói trắng xóa ở đâu hiện ra mà chúng tôi thường gọi là “cân đẩu vân” của ông. Xung quanh ông Tiên, những luồng ánh sáng có thể soi sáng cả thế gian.

Ông thường mặc bộ quần áo màu vàng, đôi guốc mộc trông giản dị và gần gũi như ông mình. Giọng nói của ông ấm áp và ôn tồn xoa dịu hết mọi nỗi đau. Nhưng điều làm tôi yêu ông nhất chính là tấm lòng của ông. “Ông Tiên tốt bụng”, “cụ già mang đến nhiều điều ước” là những cái tên mà tôi đặt cho ông. Ông Tiên giúp đỡ chị Tấm gặp được nhà vua. Khi chị Tấm không có quần áo đi dự hội, ông đã hóa phép biến đống xương cá ở bốn chân giường thành bộ quần áo đẹp, thành đôi hài đỏ dễ thương và thành con ngựa hồng để chị Tấm đi dự hội.

Ông Tiên đã dạy cho anh Khoai hai câu thần chú để trị tội tên địa chủ và cưới được con gái hắn. Trong câu chuyện cổ tích “Bông cúc trắng” ông tiên đã chỉ đường cho cô bé hái được hoa cúc mang về chữa bệnh cho mẹ. Ông còn đến tận nhà khám bệnh, chữa trị cho mẹ cô bé hiếu thảo kia.

Vậy đấy! Với cây phất trần trong tay ông đã đi khắp mọi nơi, gặp đủ hạng người, tốt có, xấu có. Nhưng chỉ những người tốt, những đứa bé ngoan ngoãn, học giỏi và hiếu thảo mới gặp được ông tiên, được ông giúp đỡ và cho điều ước. Còn những đứa trẻ hư, những người xấu sẽ phải chịu hình phạt thích đáng.

Tôi yêu ông Tiên lắm. Tôi coi ông như ông ruột của mình ấy. Từ hồi còn nằm nôi, tôi đã được các bà các mẹ kể về ông Tiên. Đến trong mơ, tôi cũng nhìn thấy những việc mà ông đã làm để giúp đỡ bà con nghèo, người gặp hoạn nạn. Tôi không phải là một đứa trẻ ngoan. Đôi lúc tôi còn lười biếng và cãi lại mẹ nhưng tôi sẽ sửa chữa, tôi sẽ cố gắng chăm học hơn, ngoan ngoãn hơn để một lần được nhìn thấy ông tiên – cụ già tốt bụng và nhân hậu của tôi.

Tả Cô Tấm – Mẫu 4

Mỗi buổi tối trước khi đi ngủ, em thường đọc một truyện cổ tích trong cuốn truyện mà mẹ tặng nhân dịp sinh nhật. Đêm qua, sau khi đọc truyện Tấm Cám, em đã có một giấc mơ gặp cô Tấm thật đẹp.

Cô Tấm có một dáng người nhỏ nhắn và xinh đẹp. Mái tóc dài và mượt được quấn gọn quanh đầu bằng một chiếc mấn màu trắng giản dị. Nước da cô trắng hồng và gương mặt hiền từ đúng như tính cách của cô vậy. Trông cô Tấm thật gầy, hai gò má hiện lên thật rõ. Hai bên, cô có đeo đôi khuyên tai hình chú chim vàng anh thì thật đẹp. Em gặp cô Tấm ở một khu vườn nào đó, cô mặc một chiếc yếm màu đỏ, bên ngoài là chiếc áo choàng màu vàng có đính cườm lấp lánh nhìn rất đẹp. Có lẽ đây là bộ trang phục dành cho hoàng hậu. Cô Tấm nhìn em, mỉm cười thân thiện. Ngồi bên một cây xoan, em được nghe cô Tấm kể rất nhiều chuyện về cuộc đời của mình, những sóng gió cuộc đời mà cô đã phải trải qua để có được hạnh phúc. Nhìn cô Tấm lúc kể chuyện vô cùng ân cần, cô như đang tâm sự với một người bạn, đôi lúc còn như trực trào nước mắt. Cô Tấm có một vẻ đẹp bình dị nhưng vô cùng cuốn hút, vừa hiền từ nhưng cũng có nét rất sắc sảo và thông minh, đôi mắt bồ câu và chiếc mũi cao, nụ cười thì thật nhẹ nhàng. Thỉnh thoảng, cô còn cầm lấy tay em gần gũi, bàn tay cô nhỏ nhắn và mịn màng. Trước khi may mắn gặp được vua, cô đã có một quãng thời gian thực sự mệt mỏi khi bị mẹ con Cám đối xử tệ bạc. Em được biết đến cô Tấm trong truyện với một tính tình chân thật và lương thiện, khi được gặp, dù chỉ là trong giấc mơ, em cũng thấy thật hạnh phúc khi cô Tấm rất hiền lành và gần gũi. Trước khi chia tay, cô Tấm đập nhẹ vào tay em, khuyên rằng: sống ở đời thì vừa lương thiện nhưng cũng vừa phải biết đấu tranh để giành lại công bằng cho chính mình, rồi sẽ có được một cuộc sống hạnh phúc.

Em rất yêu thích nhân vật cô Tấm, sau tất cả sóng gió đã trưởng thành và có được bình yên. Thật vui vì em có thể gặp cô Tấm trong mơ như vậy.

Tả Cô Tấm – Mẫu 5

Nếu như trong câu truyện cổ tích “Cô bé Lọ Lem” của nước ngoài có công chúa lọ lem và hoàng tử thì truyện cổ tích “Tấm Cám” của Việt Nam lại có cô Tấm và nhà Vua, nhân vật Tấm trong truyện được coi là hình mẫu lý tưởng cho những người con gái Việt thời xưa với bao đức tính tốt đẹp.

Số phận của Tấm cũng giống như Lọ Lem, phải sống chung với mẹ con dì ghẻ độc ác, chịu khổ trăm đường. Tấm được trời ban cho dáng vẻ mảnh mai, thướt tha duyên dáng, lại thêm khuôn mặt xinh đẹp với làn da trắng, vẻ đẹp ấy hiền hậu mà có chút buồn khổ vì phải chịu những bất hạnh, cay đắng. Y phục thường ngày của Tấm chỉ là một bộ quần áo tứ thân màu nâu đã sờn vải, bạc màu và chiếc khăn mỏ quạ màu đen đội trên đầu, nét giản dị mộc mạc ấy của Tâm còn đẹp hơn bội phần so với cô em Cám luôn mặc trên người gấm lụa xanh đỏ. Tấm chẳng có thời gian đâu mà chải chuốt, làm đỏm làm đẹp bởi cô luôn phải làm việc luôn chân luôn tay, từ sáng đến tối Tấm phải làm biết bao nhiêu việc mà hai mẹ con dì ghẻ sai khiến, bày vẽ ra. Tấm làm việc rất chăm chỉ, cô còn làm giúp cả cho Cám vì Cám luôn lười biếng đùn đẩy, thế mới thấy Tấm chẳng bao giờ hơn thua hay ganh ghét ai dù cho có bị người đó đối xử tệ bạc, bất công. Cô Tấm còn có một tấm lòng vị tha cao đẹp, dù cho hai mẹ con nhà Cám đã nhiều lần hãm hại cô chết nhưng khi được quyền trừng phạt họ Tấm vẫn rộng lòng tha thứ cho họ.

Nhân vật Tấm đã để lại trong lòng người đọc nói chung và trong trí tưởng tượng của em nói riêng những ấn tượng khó phai, em luôn phấn đấu mình có thể chăm chỉ, khéo léo và bao dung được như một phần của cô Tấm.

Tả Cô Tấm – Mẫu 6

Cô Tấm vừa đẹp người lại đẹp nết. Lòng bao dung, độ lượng của cô khiến mọi người đều mến phục. Bị mẹ con dì ghẻ lập mưu hãm hại hết lần này đến lượt khác, phải chịu biết bao buồn tủi, đau khổ, thậm chí phải chết và hóa kiếp thành mọi thứ từ đồ vật cho đến cây cối, loài vật: Tấm vẫn rộng lòng tha thứ, không lấy đó làm oán để trả thù. Cuối cùng, cô Tấm cũng được sống cuộc đời sung sướng và hạnh phúc.

Mẹ mất sớm, bố đi thêm bước nữa và ít khi có ở nhà nên Tấm phải sống cùng người dì ghẻ cay nghiệt và đứa em cùng cha khác mẹ chua ngoa tên là Cám. Cô Tấm có dáng người thướt tha mảnh khánh. Khuôn mặt đầy dặn và trắng trẻo làm nổi bật đôi mắt đen láy. Chiếc mũi thẳng cùng đôi môi mọng đỏ khiến cô xinh xắn hơn khi đội chiếc khăn mỏ quạ trên mái tóc được chải bới gọn gàng.

Suốt ngày, cô lam lũ với đủ thứ việc nhà do mẹ kế hiểm độc đày đọa cùng đứa em ích kỉ đùn đẩy. Tấm rất siêng năng, không một lời than phiền. Với chiếc áo tứ thân màu nâu cù đà sờn bạc, lặng lẽ như cái bóng, cô thoăn thoắt sắp xếp mọi thứ gọn gàng, ngăn nắp. Trong nhà ngoài cửa luôn sạch sẽ, tinh tươm. Cô Tấm vừa đẹp người lại đẹp nết. Lòng bao dung, độ lượng của cô khiến mọi người đều mến phục. Bị mẹ con dì ghẻ lập mưu hãm hại hết lần này đến lượt khác, phải chịu biết bao buồn tủi, đau khổ, thậm chí phải chết và hóa kiếp thành mọi thứ từ đồ vật cho đến cây cối, loài vật: Tấm vẫn rộng lòng tha thứ, không lấy đó làm oán để trả thù. Cuối cùng, cô Tấm cũng được sống cuộc đời sung sướng và hạnh phúc.

Qua hình ảnh cô Tấm trong truyện, em càng khắc sâu hơn những điều đã học:

Tả nhân vật Nàng lọ lem Tả Nàng lọ lem – Mẫu 1

Những giấc mơ tuổi thơ của em gắn liền với những nàng công chúa xinh đẹp: nàng Bạch Tuyết, nàng Aurora, hay công chúa dưới thủy cung Ariel,…Nhưng trong số đo em ấn tượng nhất là nàng Cinderella-Lọ Lem.

Lọ Lem vốn không phải là một nàng công chúa có xuất thân từ hoàng gia, nàng sống với mẹ kế độc ác và luôn phải ở trong căn hầm đầy bụi bẩn. Nhưng cuộc sống vất vả suốt ngày phải làm việc nhà và bộ váy rách rưới không làm nàng bi quan, khuôn mặt Lọ Lem lúc nào cũng rạng rỡ hồng hào, dáng người thon thả uyển chuyển và đôi chân hay nhảy múa cùng những chú chim xanh. Chú là những người bạn thân thiết nhất của Lọ Lem, vào mỗi sáng thức dậy, nàng và chúng luôn cùng hát khúc ca chào ngày mới, thậm chí trên phim hoạt hình những chú chim còn giúp nàng tết tóc. Mái tóc nàng màu vàng óng ả dài qua vai một chút, đó là đặc trưng của người con gái phương tây, có lúc được nàng buộc gọn gàng với chiếc ruy băng hồng hình nơ, có lúc lại để buông lả lơi trên bờ vai mảnh mai. Sóng mũi cao kết hợp cùng đôi môi căng mọng ửng hồng mang lại cho nàng một nét đẹp cổ điển mà kiêu sa. Nổi bất nhất trên gương mặt xinh đẹp là đôi mắt xanh long lanh đượm vẻ mộng mơ tưởng chừng như chứa cả một đại dương gợn sóng bên trong, hàng lông mi dài cùng đôi lông mày thanh tú khiến nàng trông vừa hiền hòa mà vừa sắc sảo. Trong trang phục xấu xí nàng vẫn vô cùng kiều diễm, khi đã được khoác lên mình những bộ váy dạ hội lộng lẫy và lấp lánh, Lọ Lem trở thành một nàng công chúa cao quý và sang trọng. Mái tóc mượt mà không buông trên vai nữa mà được búi lên cao kĩ càng, tôn lên làn da trắng trẻo của nàng. Đôi tai nàng đeo trang sức ngọc trai quý phái rất hợp với bộ váy màu xanh da trời bồng bềnh. Nhưng có lẽ đáng nhớ và kì diệu nhất là đôi giày thủy sáng lung linh đã làm cầu nối để Lọ Lem và hoàng tử đến với nhau, đôi giày chỉ vừa với người duy nhất có đôi bàn chân nhỏ nhắn, đó chính là nàng. Và, hạnh phúc cũng chỉ đến với con người có nhan sắc và đức hạnh như nàng

Advertisement

Em vô cùng yêu thích nhân vật Lọ Lem, nàng đã dạy em bài học để trở thành người tốt, ở hiền gặp lành. Em ước nàng có thật trong đời sống để có thể nhìn tận mắt gương mặt của nàng.

Tả Nàng lọ lem – Mẫu 2

Em đã đọc nhiều truyện cổ tích của thế giới nhưng em vẫn ấn tượng với truyện Cô bé Lọ Lem. Nàng Lọ Lem trong truyện thật xinh đẹp, dịu hiền và rất nết na. Cô nàng đã có quãng thời gian dài khổ cực để tìm tới một hạnh phúc trọn vẹn.

Lọ Lem thật xinh đẹp! Dáng người nàng nhỏ nhắn, dong dỏng cao. Khuôn mặt trái xoan, thanh tú nổi bật, nước da trắng hồng, mịn màng. Đôi mắt đen láy, sáng long lanh ẩn dưới hàng lông mi uốn cong tự nhiên càng làm tăng vẻ quyến rũ của đôi mắt. Hàng lông mày lá liễu dài, cong càng làm tăng vẻ tự nhiên của đôi mắt quyến rũ ấy. Chiếc mũi dọc dừa cao điểm vẻ đẹp cho khuôn mặt của nàng. Đôi môi mềm, đầy đặn, bóng như vừa được bôi một lớp son mỏng. Hàm răng trắng, đều đặn cứ lấp ló giữa hai vành môi, ẩn giấu một vẻ đẹp nền nã. Mái tóc đen, óng mượt xoã ngang vai. Thường ngày Lọ Lem chỉ mặc một bộ đồ rách rưới, vá chằng vá đụp để lau dọn nhà cửa. Khuôn mặt của Lọ Lem xinh xắn vậy mà lại luôn bị lem luốc bởi cô phải quét dọn nơi xó nhà hay gác xép bẩn thỉu. Chính vì bộ dạng lem luốc nên cô mới bị gọi tên là Lọ Lem. Lọ Lem rất chăm chỉ, luôn dọn dẹp luôn chân luôn tay. Cô rất hay lam hay làm. Lọ Lem có tính nết thật tốt đẹp: hiền dịu, nết na, chăm chỉ – những đức tính, phẩm chất tốt đẹp nhất của người phụ nữ.

Cuộc đời của Lọ Lem có quãng đường dài thật gian khổ mới tìm được hạnh phúc đích thực. Để dẫn tới kết quả tốt đẹp đó là cả một câu chuyện dài.

Thuở nhỏ, Lọ Lem sống rất vui vẻ cùng cha mẹ trong ngôi nhà rộng rãi, thoải mái. Bỗng nhiên, mẹ nàng lâm bệnh nặng rồi qua đời. Cha nàng lấy thêm vợ kế. Mụ mẹ kế đã có hai đứa con riêng trạc tuổi Lọ Lem. Hai đứa con của mụ đứa thì gầy, đứa thì béo. Sau đó, cha của Lọ Lem bị tai nạn nên cũng qua đời. Sau khi ông mất, mụ mẹ kế bắt cô bé phải phục vụ và phục tùng hai mẹ con mụ. Những bộ đồ lộng lẫy, những đôi giày tuyệt đẹp và căn phòng trang hoàng lộng lẫy đã quá xa vời với Lọ Lem. Mụ mẹ kế chỉ cho Lọ Lem mặc những bộ đồ bỏ đi, vá chằng vá đụp và đôi giày thô kệch. Mụ bắt cô phải làm lụng luôn chân luôn tay. Còn hai cô con riêng của mụ chỉ biết ăn chơi, lêu lổng, sống cuộc sống sung sướng mà lẽ ra Lọ Lem được hưởng. Lọ Lem xinh xắn chỉ được ở trên gác xép bụi bặm, bẩn thỉu, chứa đầy đồ cũ nát và cô có bạn là những chú chuột. Rồi một hôm, hoàng từ mở tiệc tiếp khách có mời cả mấy mẹ con mụ dì ghẻ và cả Lọ Lem nữa. Nhưng mụ chỉ sắm sửa, trang điểm cho mình và hai đứa con xấu xí. Mụ còn bắt Lọ Lem nhặt hạt đỗ tới bong cả tay mà không được đi dự tiệc. May có bà tiên giúp đỡ, cô đã có bộ đồ lộng lẫy, cổ xe tuyệt đẹp tới dự tiệc. Lọ Lem nhảy với hoàng tử tới sau mười hai giờ – giờ bà tiên dặn phải về nếu không phép màu sẽ bị biến mất. Cô vội vã đánh rơi chiếc giày làm hoàng tử đi tìm khắp nơi. Cuối cùng, hoàng tử đã tìm được chủ nhân của chiếc giày. Hoàng tử đã tìm thấy vị hôn thê của đời mình – Lọ Lem và cưới nàng về làm vợ. Cuộc sống của hai người rất hạnh phúc.

Lọ Lem là cô gái nết na, hiền dịu và rất xinh đẹp. Với tâm hồn trong sáng và phẩm chất tốt đẹp, cô đã tìm được đến với hạnh phúc đích thực. Qua câu chuyện, em hiểu rằng người chăm ngoan, hiền dịu, nết na sẽ được đền đáp xứng đáng.

Tả Nàng lọ lem – Mẫu 3

Em đã được đọc nhiều truyện cổ tích cả trong nước và của nước ngoài, để nói về một truyện cổ tích có kết thúc tuyệt vời nhất theo em đó là truyện “Cô bé Lọ Lem”, em luôn tưởng tượng về nhân vật cô bé Lọ Lem để nhắc nhở mình thật chăm chỉ làm việc, phải làm thật giỏi và khéo như cô nàng Lọ Lem.

Gọi là Lọ Lem nhưng cô bé Lọ Lem không hề xấu xí như ta nghĩ mà nàng lấm lem bởi phải làm quá nhiều công việc, thực tế cô bé Lọ Lem có dáng người nhỏ nhắn, dễ thương, khuôn mặt xinh đẹp hơn hẳn hai người chị kế. Dù làm lụng suốt ngày nhưng nàng Lọ Lem vẫn có làn da trắng muốt, mịn màng, mái tóc nâu vàng suôn mượt óng ả, nàng có đôi mắt nâu như những chú chim bồ câu, mỗi khi nàng cười, nụ cười tươi rạng rỡ và hiền hậu như an ủi chính số phận cay đắng, tủi thân của nàng. Cô bé Lọ Lem là một người luôn lạc quan yêu đời, dù phải làm vất vả nhưng nàng vẫn hay ca hát, nàng nấu ăn rất ngon, khâu vá giỏi, tận dụng vải cũ thừa để khâu giày cho mình. Tất cả mọi người đều ngỡ ngàng trước vẻ xinh đẹp kiều diễm của Lọ Lem trong đêm dạ hội, nàng trở thành nàng công chúa đẹp tuyệt trần trong bộ váy lộng lẫy, đôi giày pha lê long lanh. Trong đêm dạ hội nàng đã trở thành một người hoàn toàn khác, nàng khiến mọi người thán phục bởi tài năng và sắc đẹp của mình khi nhảy những bước nhảy uyển chuyển cùng hoàng tử.

Lọ Lem đã thực sự trở thành nàng công chúa và nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc đó, nàng là một tấm gương với những phẩm chất tốt đẹp để mọi người cùng học tập, có thể cuộc đời sẽ phải trải qua những đau khổ, khó khăn nhưng cứ cố gắng vượt qua rồi sẽ đến ngày chúng ta nhận lại hoa thơm, trái ngọt.

Tả nhân vật Nàng tiên Ốc Tả Nàng tiên Ốc – Mẫu 1

Chắc hẳn các bạn vẫn còn nhớ câu chuyện “Nàng tiên Ốc” được học trong chương trình Kể chuyện ở lớp Bốn. Nàng tiên hóa thân trong vỏ của con ốc và được một bà lão nông dân mang về nuôi khiến ai ai cũng yêu thích và có sự liên tưởng đến cô Tấm dịu hiền bước ra từ quả thị giúp bà lão trong truyện “Tấm Cám”.

Nàng tiên Ốc mới đẹp làm sao! Dáng người thanh mảnh, bước đi mềm mại, uyển chuyển. Làn da nàng trắng mịn như tuyết. Khuôn mặt trái xoan xinh đẹp, hiền hậu và dịu dàng. Dưới cặp mi cong vút là đôi mắt bồ câu sáng long lanh. Đôi môi hình trái tim lúc nào cũng đỏ mọng.

Nàng mặc một bộ váy màu xanh nước biển, có thắt một chiếc đai màu trắng càng tăng thêm vẻ duyên dáng của nàng. Hằng ngày, nàng từ trong vỏ ốc chui ra giúp bà lão quét dọn nhà cửa nấu cơm, nhặt cỏ vườn và cho lợn ăn. Động tác của nàng nhanh nhẹn, bước đi của nàng như lướt trên mặt đất.

Những công việc nàng làm chẳng mấy chốc là xong. Cơm nàng nấu rất khéo và ngon. Đàn lợn dưới tay nàng chăm sóc lớn nhanh như thổi. Vườn rau tươi ngày càng xanh tốt. Mỗi lần đi làm đồng về, bà lão nông dân vô cùng ngạc nhiên không biết ai đã giúp mình.

Một lần bà giả vờ ra đồng rồi quay trở về, bà bắt gặp nàng tiên Ốc, bà sững sờ trước sắc đẹp lộng lẫy của nàng, bà vội chạy ngay ra chum nước và đập vỡ vỏ ốc đi. Thấy động, nàng tiên Ốc định chạy lại chum nước nhưng bà lão đã ôm chầm lấy nàng. Từ đó, nàng trở thành người con hiếu thảo, ngoan ngoãn của bà cụ. Hai mẹ con sống hạnh phúc bên nhau.

Câu chuyện thật hay phải không các bạn, cuối cùng nàng tiên xinh đẹp cũng trở thành người con của bà cụ và được sống hạnh phúc bên mái ấm yêu thương rồi.

Tả Nàng tiên Ốc – Mẫu 2

Chắc hẳn các bạn vẫn còn nhớ câu chuyện Nàng tiên Ốc được học ở lớp Bốn. Nàng tiên hoá thân trong vỏ của con ốc và được một bà lão nông dân mang về nuôi.

Nàng tiên Ốc mới đẹp làm sao! Dáng người thanh mảnh, bước đi mềm mại, uyển chuyển. Làn da nàng trắng mịn như tuyết. Khuôn mặt trái xoan xinh đẹp, hiền hậu và dịu dàng. Dưới cặp mi cong vút là đôi mắt bồ câu sáng long lanh. Đôi môi hình trái tim lúc nào cũng đỏ mọng. Nàng mặc một bộ váy màu xanh nước biển, có thắt một chiếc đai màu trắng càng tăng thêm vẻ duyên dáng của nàng.

Hằng ngày, nàng từ trong vỏ ốc chui ra giúp bà lão quét dọn nhà cửa nấu cơm, nhặt cỏ vườn và cho lợn ăn. Động tác của nàng nhanh nhẹn, bước đi của nàng như lướt trên mặt đất. Những công việc nàng làm chẳng mấy chốc là xong. Cơm nàng nấu rất khéo và ngon. Đàn lợn dưới tay nàng chăm sóc lớn nhanh như thổi. Vườn rau tươi ngày càng xanh tốt.

Mỗi lần đi làm đồng về, bà lão nông dân vô cùng ngạc nhiên không biết ai đã giúp mình. Một lần bà giả vờ ra đồng rồi quay trở về, bà bắt gặp nàng tiên Ốc, bà sững sờ trước sắc đẹp lộng lẫy của nàng, bà vội chạy ngay ra chum nước và đập vỡ vỏ ốc đi. Thấy động, nàng tiên Ốc định chạy lại chum nước nhưng bà lão đã ôm chầm lấy nàng. Từ đó, nàng trở thành người con hiếu thảo, ngoan ngoãn của bà cụ. Hai mẹ con sống hạnh phúc bên nhau.

Văn Mẫu Lớp 12: Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Tràng Trong Truyện Ngắn Vợ Nhặt (5 Mẫu) Dàn Ý Vợ Nhặt

I. Mở bài

Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông thường  tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động. Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân trong nạn đói năm 1945. Trong truyện, nhân vật Tràng đã diện cho những người nông dân trong giai đoạn này.

II. Thân bài

1. Khái quát về nhân vật Tràng

Xuất thân: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, sống cùng mẹ già trong một căn nhà tồi tàn, cuộc sống bấp bênh.

Ngoại hình: “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, “thân hình to lớn vập vạp” – xấu xí, thô kệch lại ngờ nghệch vụng về.

2. Diễn biến tâm trạng và hành động

a. Hoàn cảnh gặp gỡ và nhặt được vợ

– Lần gặp 1: Từ một lời hò bâng quơ mà có một cô gái lạ đến đẩy xe bò giúp Tràng.

– Lần gặp 2:

Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.

Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “Chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.

Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.

b. Trên đường về về nhà

Vẻ mặt “có cái gì phơn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”. Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện. Tràng còn mua hai hào dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.

c. Khi về đến nhà

– Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.

– Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vi gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay. Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.

– Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lý do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy

– Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo…). Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.

– Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.

III. Kết bài

Khái quát lại về nhân vật Tràng, cảm nhận chung về nhân vật này.

Xem bài mẫu: Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt 

I. Mở bài

Dẫn dắt để giới thiệu vấn đề cần phân tích: nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân.

II. Thân bài

1. Khái quát

Truyện ngắn “Vợ nhặt” trích từ tập “Con chó xấu xí” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm là bức tranh chân thực và cảm động về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Thông qua các nhân vật bà cụ Tứ, Tràng và cô vợ nhặt tác giả Kim Lân đã làm bừng sáng vẻ đẹp nhân văn của tác phẩm – đó là vẻ đẹp tình người trong nạn đói.

2. Phân tích nhân vật

a. Tràng là anh nông phu nghèo khổ, kém duyên

– Tràng hiện lên với thân phận nghèo hèn: Là dân ngụ cư bị khinh rẻ; nhà cửa thì “rúm ró” lụp xụp, rách nát, tuềnh toàng. Công việc kéo xe bò thuê vừa bấp bênh, vừa chẳng được bao nhiêu tiền.

– Đã vậy, anh còn có một ngoại hình thô kệch, xấu xí “đầu trọc nhẵn”, “mắt nhỏ tí lại còn gà gà”, “quai hàm bạnh”, “lưng to như lưng gấu”. Tính cách thì ngờ nghệch, vô tư, chỉ thích chơi với trẻ con.

b. Tràng là người đàn ông nhân hậu, tốt bụng

– Gặp lại người con gái đẩy xe bò giúp anh lần trước, Tràng không khỏi ái ngại, xót xa. Bởi trước mắt anh là hình ảnh thê thảm của người đồng cảnh ngộ: “quần áo rách như tổ đỉa, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Tràng động lòng thương, bởi Tràng cảm nhận được sự đói khát cùng đường ở người đàn bà ấy.

– Khi lời bông đùa của Tràng trở thành cái phao cứu sinh của người đàn bà giữa biển đời mênh mông; Tràng có “trợn” nghĩ về việc mình đã nghèo lại còn “đèo bòng”. Nhưng lòng thương người, khát vọng được gắn bó với người đàn bà xa lạ đã khiến anh chiến thắng cả lý trí của mình, để rồi nhanh chóng trở thành chỗ dựa cho người đàn bà. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.

c. Tràng là người đàn ông cũng có khát vọng hạnh phúc

– Đồng ý cưu mang người đàn bà xa lạ khiến Tràng trở nên chín chắn, biết lo lắng, quan tâm chăm sóc. Anh “bỏ tiền mua cho thị cái thúng con, trong đựng vài thứ lặt vặt”. Thì ra Tràng cũng là một người đàn ông khá tâm lý. Mua cho thị cái thúng là để thị tự tin hơn khi về nhà chồng, vả lại ai lại để vợ mình về nhà bằng tay không bao giờ. Anh còn mua hai hào dầu thắp sáng. Hai hào dầu có thể là “hoang phí” vào lúc này, nhất là khi “chẳng có nhà nào có ánh đèn lửa”. Nhưng nó mang lại giá trị tinh thần rất lớn, cho thấy, Tràng rất trân trọng giá trị của hạnh phúc, trân trọng người vợ. Với hai hào dầu phải chăng Tràng cũng muốn thắp sáng cả tương lai của mình. Điều đó cũng cho thấy, Tràng không còn hời hợt nông cạn nữa mà đã thực sự nghiêm túc, chu đáo trước quyết định lấy vợ.

– Trên đường “dẫn vợ về nhà chồng”: Tràng hiện lên với hình ảnh “mắt sáng lên lấp lánh”, cái mặt “phớn phở”. Tất cả đều biểu lộ niềm vui, niềm hạnh phúc lâng lâng của một con người lần đầu tiên được đón nhận tình yêu.

– Về đến nhà, Khi thưa chuyện với mẹ, Tràng tạo ra không khí gia đình ấm áp, thiêng liêng. Tràng cảm nhận được việc lập gia đình là việc hệ trọng, là chuyện cả đời. Anh khéo léo khi gọi người đàn bà xa lạ là “nhà tôi”; tránh làm vợ tổn thương bằng cách gọi mối lương duyên này là “do số”. Anh cũng khéo léo “ép” mẹ mình phải chấp nhận cuộc hôn nhân.

– Tràng không còn thô kệch, vụng về nữa mà trở thành người có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình.

– Sáng hôm sau, Tràng cảm thấy tâm trạng lâng lâng hạnh phúc: “lửng lơ êm ái như vừa đi từ trong giấc mơ ra”. Chuyện lấy vợ của Tràng giống như cổ tích, giống như giấc mơ nhưng là giấc mơ có thật. Tài liệu thầy Phan Danh Hiếu

– Quan sát xung quanh, Tràng cảm nhận được sự thay đổi mới mẻ. Nhà cửa được bàn tay đảm đang của người vợ vun vén đã trở nên gọn gàng. Người mẹ đang giãy những bụi cỏ dại, người vợ đang quét lại cái sân. Cảnh tượng sinh hoạt gia đình bình dị khiến Tràng cảm động.

– Tình cảm, suy nghĩ của Tràng có nhiều thay đổi. Lần đầu tiên ở người nông phu ấy thấy yêu thương gắn bó với căn nhà; thấy cần có trách nhiệm với gia đình. Đó là những suy nghĩ chín chắn của người đàn ông trưởng thành chứ không còn là một anh Tràng ngốc nghếch, khờ khạo trước đó.

– Tràng trở nên lễ phép, ngoan ngoãn, luôn biết vâng lời trước mẹ là biểu hiện của lòng hiếu thảo. Điều này cũng đã được Kim Lân nhắc đến trong tác phẩm “chưa bao giờ mẹ con lại đầm ấm hòa hợp đến thế”.

– Tràng có niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng. Với hình ảnh “đoàn người đói, lá cờ đỏ”, tác giả Kim Lân đã gián tiếp nói về nhận thức cách mạng và nhận thức về sự đổi đời của Tràng. Tác giả dự báo, Tràng sẽ xuất hiện dưới lá cờ đó, trong đoàn người đó. Bởi muốn thay đổi được cuộc sống hiện tại, không còn con đường nào khác ngoài con đường đi theo cách mạng, bởi chỉ có cách mạng mới có thể mang lại sự đổi đời cho những người nông dân.

3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Xây dựng nhân vật bằng bút pháp miêu tả, phân tích tâm lý chân thực, tinh tế. Khắc họa nhân vật bằng ngôn ngữ đối thoại sống động, giàu cá tính. Xây dựng tình huống truyện độc đáo, bất ngờ. Ngôn ngữ kể tự nhiên, mộc mạc, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người nông dân. Giọng kể hồn hậu, hóm hỉnh, giàu chất trữ tình.

III. Kết bài

Khái quát lại về nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân.

1. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt

– Đôi nét về nhân vật Tràng cùng những phẩm chất cao đẹp.

2. Thân bài

– Xuất thân nghèo khó và hoàn cảnh éo le của nhân vật Tràng: Dân ngụ cư, công việc chỉ đẩy xe bò, sống cùng mẹ già

– Ngoại hình của nhân vật Tràng: Xấu xí, thô kệch, là nông dân bình dị không có gì đặc biệt

– Tràng là một nhân vật có tính cách nhân hậu và cởi mở.

– Nhân vật Tràng là người có ý thức và khát khao về hạnh phúc.

– Phân tích tình huống nhặt được vợ

– Phân tích diễn biến tâm lý của Tràng khi nhặt được vợ

3. Kết bài

– Nêu những suy nghĩ chung về nhân vật Tràng trong tác phẩm.

– Khái quát nội dung cùng giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật.

– Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc. Đồng thời tác phẩm này cũng phản ánh chân thực bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của những người nông dân.

I. Mở bài

Giới thiệu về nhà văn Kim Lân, cùng truyện ngắn “Vợ nhặt”.

Giới thiệu khái quát về nhân vật Tràng trong truyện.

II. Thân bài

1. Giới thiệu đôi nét về Tràng

Người dân xóm ngụ cư: cha mất sớm, sống cùng mẹ già trong căn nhà tồi tàn.

Nghề nghiệp: kéo xe bò thuê

Ngoại hình: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, lại thô lỗ…

2. Hành động và tâm trạng

* Cuộc gặp gỡ với Thị:

– Lần gặp 1: Câu hò Tràng chỉ là lời hát vu vơ, không chủ tâm trêu ghẹo tình với cô gái nào.

– Lần gặp 2:

Khi bị người đàn lại mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn một chặp bát bánh đúc dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.

Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đó không phải là quyết định bồng bột mà là thái độ thản nhiên, chấp nhận hoàn cảnh cũng như sâu thẳm trong đó là khát khao hạnh phúc, thương yêu của Tràng.

Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.

* Trên đường về nhà:

– Vẻ mặt “có cái gì hớn hở khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”… Tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.

– Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa. Khát vọng về một tương lai tươi sáng.

* Khi về đến nhà:

– Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.

– Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay. Sốt ruột mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.

– Khi mẹ về: liền thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lý do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

* Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:

– Buổi sáng tỉnh dậy

Tràng nhận thấy sự thay đổi kỳ lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo…).

Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.

– Trong bữa cơm đầu tiên sau khi có vợ

Khi bà cụ Tứ bàn về tương lai, Tràng chỉ vâng rất ngoan ngoãn khiến cho không khí trong gia đình ấm áp, hòa hợp mà trước giờ chưa từng thấy.

Khi cầm bát cháo cám đưa lên miệng, hắn chun mặt lại vì chao chát nhưng khi nghe cô thị kể về việc người dân mạn trên đi phá kho thóc Nhật, trong ý nghĩ của hắn hiện lên hình ảnh người dân đi phá kho và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới.

III. Kết bài

Khái quát lại về nhân vật Tràng. Cảm nhận của người viết về nhân vật này.

Advertisement

I. Mở bài:

Giới thiệu khái quát về tác giả – tác phẩm –nhân vật Tràng

Tác giả: Nhắc tới nhà văn Kim Lân là nhắc tới ông hoàng của thể loại truyện ngắn. Ông viết về con người và cuộc sống ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng.

Tác phẩm: “Vợ nhặt” là truyện ngắn độc đáo, in trong tập “Con chó xấu xí”.

Nhân vật Tràng: Qua tác phẩm, nhân vật Tràng đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu đậm.

II. Thân bài

1. Nội dung phân tích

* LĐ1: Gia cảnh, ngoại hình, tính cách nhân vật Tràng

– Là người lao động nghèo, tốt bụng và cởi mở (giữa lúc đói, anh sẵn lòng đãi người đàn bà xa lạ)

– Tràng là nhân vật có bề ngoài thô, xấu, thân phận lại nghèo hèn, mắc tật hay vừa đi vừa nói một mình, là dân ngụ cư, lại đang sống trong những ngày tháng đói khát nhất nạn đói 1945.

– Ở Tràng luôn khát khao hạnh phúc và có ý thức xây dựng hạnh phúc.

* LĐ2: Tình huống truyện: Tràng “nhặt” được vợ

– Chi sau hai lần gặp gỡ và cho ăn 4 bát bánh đúc, vài câu nói nửa đùa nửa thật. Câu “nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” đã ẩn chứa niềm khát khao tổ ấm gia đình. Người đàn bà xa lạ đã đồng ý theo Tràng về làm vợ:

Lúc đầu Tràng cũng cảm thấy lo lắng “chợn nghĩ”: Thóc…đèo bòng”.

Sau đó Tràng đã “Chậc, kệ” và Tràng đã “liều” đưa người đàn bà xa lạ về nhà.

– Trên đường đưa vợ về xóm ngụ cư: cảm giác êm dịu của một anh Tràng lần đầu tiên đi cạnh cô vợ mới. Tràng không cúi xuống lầm lũi như mọi ngày mà “phởn phơ”, “vênh vênh ra điều”. Trong phút chốc, Tràng quên tất cả tăm tối “chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên” và cảm giác êm dịu của một anh Tràng lần đầu tiên đi cạnh cô vợ mới.

– Khi về tới nhà: Tràng cảm thấy lúng túng, chưa tin vào sự thật mình đã có vợ. Đó là niềm hạnh phúc.

– Kim Lân xây dựng vừa bất ngờ lại vừa hợp lí. Qua đó, tác phẩm thể hiện rõ giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật.

* LĐ3: Diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng trong buổi sáng sau ngày hắn nhặt được vợ.

– Sáng hôm sau Tràng dậy muộn “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Việc hắn có vợ đến lúc ấy hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.

– Lần đầu tiên người đàn ông nghèo khổ ấy nhận ra rằng ngôi nhà chính là tổ ấm, một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Tràng đã trở nên sâu sắc hơn rất nhiều sau khi anh có vợ.

– Trong bữa cơm gia đình đầu tiên từ khi có vợ Tràng vâng dạ với bà cụ Tứ “rất ngoan ngoãn”. Thái độ đó của anh góp phần tạo lên một không khí đầm ấm hòa hợp của một gia đình thực sự.

– Đúng lúc ấy, ngoài đình vang lên một hồi trống dồn dập. Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi điều gì đó. Có lẽ hắn nghĩ đến những người đi phá kho thóc Nhật…

2. Đặc sắc nghệ thuật

Tóm lại, nhân vật chính của câu chuyện nhặt được vợ – Tràng đã được Kim Lân khắc họa một cách sinh động qua nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật trong tác phẩm của mình.

Cách dựng tình huống truyện độc đáo.

III. Kết bài

– Tổng kết nội dung phân tích.

– Nêu cảm nhận của em về nhân vật Tràng

Văn Mẫu Lớp 11: Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao (6 Mẫu + Sơ Đồ Tư Duy) Phân Tích Nhân Vật Huấn Cao

Sơ đồ tư duy nhân vật Huấn Cao

Lập dàn ý phân tích nhân vật Huấn Cao – Mẫu 1

I. Mở bài

– Giới thiệu hình tượng nhân vật trung tâm trong Vang bóng một thời của tác giả tài hoa Nguyễn Tuân: Những nho sĩ cuối mùa tuy thất thế nhưng vẫn giữ thiên lương và sự trong sạch của tâm hồn

– Huấn Cao trong Chữ người tử tù (in trong VBMT) là một trong số đó. Hiện lên trong tác phẩm là một con người mang tài hoa, khí phách và thiên lương

II. Thân bài

1. Huấn Cao- người nghệ sĩ tài ba

– Huấn Cao là nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp.

– Tài năng của ông đã được nói tới một cách kính nể qua cuộc nói chuyện giữa Quản ngục và thơ lại:

+ Người khắp vùng tỉnh Sơn khen Huấn Cao là người có tài viết chữ “rất nhanh và rất đẹp”

– Tài năng ấy được thể hiện qua thái độ sùng kính của Quản ngục: “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm…có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một báu vật trên đời

– Sự tài hoa thể hiện trong cảnh cho chữ: “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ”

⇒ Huấn Cao thực sự đã trở thành một người nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp

2. Huấn Cao – con người của khí phách hiên ngang, bất khuất

– Khí phách hiên ngang thể hiện trong cuộc nói chuyện của quản ngục:

“dọc ngang nào biết trên đầu có ai”

coi nhà tù thực dân như chốn không người, “ra tay tháo cũi xổ lồng như chơi”, có tài bẻ khóa vượt ngục

“văn võ kiêm toàn”

⇒ lí tưởng sống cao đẹp, dám chống lại triều đình mà ông căm ghét, khinh bỉ.

– Là thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa chống lại triều đình.

– Ngay khi đặt chân vào nhà ngục: Thản nhiên rũ rệp trên thang gông:

⇒ khí phách, tiết tháo của nhà Nho

– Khí phách thể hiện qua thái độ thán phụccủa quản ngục và thầy thơ lại

– Khí phách thể hiện qua thái độ của bọn lính: kiêng nể “tên này nguy hiểm và ngạo ngược nhất trong bọn”

– Khi được viên quản ngục biệt đãi: “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”

⇒ phong thái tự do, ung dung, xem nhẹ cái chết.

– Trả lời quản ngục bằng thái độ khinh miệt: “Ngươi hỏi ta muốn gì …vào đây”.

⇒ Không khuất phục trước cường quyền.

⇒ khí phách của một người anh hùng.

3. Huấn Cao – người mang thiên lương đáng trọng

– Tâm hồn trong sáng, cao đẹp: “Không vì vàng ngọc hay quyền thê mà ép mình viết câu đối bao giờ” ⇒ trọng nghĩa, khinh lợi, chỉ cho chữ những người tri kỉ.

– Khi chưa biết tấm lòng của quản ngục: xem y là kẻ tiểu nhân

– Khi biết tấm lòng”biệt nhỡn liên tài” của quản ngục: Huấn Cao nhận lời cho chữ

⇒ Chỉ cho chữ những người biết trân trọng cái tài và quý cái đẹp.

– Câu nói của Huấn Cao với quản ngục: “Thiếu chút nữa … trong thiên hạ”

⇒ Sự trân trọng đối với những người có sở thích thanh cao, có nhân cách cao đẹp.

⇒ Huấn Cao là một anh hùng – nghệ sĩ, một thiên lương trong sáng.

4. Sự thống nhất của tài hoa, khí phách, thiên lương làm nên cảnh cho chữ – “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”

– Hình tượng Huấn Cao đang “dậm tô nét chữ” trên “tấm lụa trắng còn nguyên vẹn lần hồ” trong hoàn cảnh “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” ở nơi tù ngục tối tăm ⇒ kết tinh cho tài hoa, khí phách, thiên lương

– thành biểu tượng cho sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp cái cao cả đối với cái phàm tục, dơ bẩn

5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Huấn Cao

– Đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo

– Nghệ thuật tương phản đối lập

– Ngôn ngữ miêu tả nhân vật giàu chất tạo hình.

III. Kết bài

– Khái quát những nét nghệ thuật tiêu biểu xây dựng thành công nhân vật Huấn Cao

– Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân về nhân vật: Huấn Cao là một tấm gương về vẻ đẹp toàn tài con người hôm nay hướng tới

Dàn ý hình tượng nhân vật Huấn Cao – Mẫu 2

I. Mở bài

– “Vang bóng một thời” gồm mười một truyện viết về một thời đã xa, nay chỉ còn vang bóng. Qua tập truyện, Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự bất hòa sâu sắc đối với xã hội buổi giao thời cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX ở nước ta và ca ngợi những nhà nho tài hoa không chịu vứt bỏ lương tâm, chạy theo danh lợi, vẫn giữ thiên lương cao đẹp.

– Một trong những nhân vật tiêu biểu là Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”.

II. Thân bài

1. Con người mang nét đẹp của tư thế, khí phách

Bằng một thứ văn xuôi điêu luyện gợi được không khí cổ kính của một thời đã qua, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công những nét tính cách nhân vật.

a. Một con người tự trọng, sống hiên ngang bất khuất.

– Tự trọng, không ham quyền và hám lợi: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”.

– Hiên ngang bất khuất: “những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người tu, người ta cũng còn chẳng biết ai nữa…”

b. Chí lớn không thành, coi thường gian khổ, kể cả cái chết

– Chống lại triều đình, bị bắt giam tử ngục, vẫn coi thường: “Đến cái cảnh chết chém, ông cũng chẳng sợ nữa …”

– Có những suy nghĩ, hành vi thật phóng khoáng: “Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt của viên quản ngục, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình, dù đang bị giam cầm”.

c. Khinh bỉ những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị.

– Dưới mắt ông, chúng chỉ là là tiểu nhân thị oai, nên ông luôn tỏ ra khinh bỉ chúng, dù ở giữa cảnh tàn nhẫn, lừa lọc, giữa một dõng cặn bã.

– Thái độ và ngôn ngữ nhân vật cực kì khinh bạc. Sau khi viên quản ngục khép nép hỏi Huấn Cao có cần gì nữa không, ông đã trả lời rất thản nhiên: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ cần có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Khí phách đó, tư thế đó luôn luôn hiên ngang lồng lộng giữa cái nền xám xịt của ngục tù.

2. Con người mang nét đẹp của tâm hồn, tài hoa

a. Tâm hồn cao quý

Huấn Cao ca ngợi thiên lương, tức là cái bản chất tốt đẹp của con người: “Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã… Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục thể hiện cái tâm của nhân vật Huấn Cao vậy.

b. Yêu cái đẹp và cảm thông với người yêu quý cái đẹp.

Huấn Cao kiêu bạc là thế, nhưng khi hiểu được tấm lòng chân thành của ngục quan, ông vui vẻ nhận cho chữ, mà còn tỏ ra cảm động: “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.

c. Rất mực tài hoa

– Thư pháp (phép viết chữ, nghệ thuật viết chữ Hán) vốn là một thú tao nhã của người xưa, bên cạnh cầm, kỳ, thi, họa. Ông Huấn có tài viết chữ đẹp, “vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm.

– Cái tài hoa ấy chỉ dành riêng cho người tri kỷ: “Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”. Và lần này như một ngoại lệ, ông cho chữ viên quản ngục, vì “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người”.

– Cái cao đẹp (viết chữ vốn là một việc thanh cao, long trọng, với lụa tràng, mực thắm, nét chữ vuông tươi tắn) đối lập với cái dơ bẩn (cảnh buồng nhà ngục tối, chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián).

– Hình ảnh kì vĩ của người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ đối lập với hình ảnh co ro của thầy thơ lại run run bưng chậu mực và của viên quản ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ… chắp tay vái người tù một vái.

3. Đánh giá về hình tượng Huấn Cao

– Hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù tượng trưng cho cái đẹp của khí phách, của tài hoa hòa hợp cái đẹp của thiên lương.

– Nhân vật Huấn Cao, cũng như nhiều nhân vật chính diện khác trong Vang bóng một thời, nhất thiết phải là một con người tài hoa. Song ở Huấn Cao, bên cạnh cái tài hoa, còn có vẻ đẹp khí phách của một con người có trách nhiệm đối với thời cuộc và cái đẹp của thiên lương. Đó cũng là nét độc đáo của hình tượng nhân vật Huấn Cao, so với các nhân vật khác trong Vang bóng một thời.

III. Kết bài

– Nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Tuân trong “Chữ người tử tù” mang tính cổ kính qua hệ thống ngôn ngữ, lối suy nghĩ, cung cách đối xử… toát lên không khí của một thời mà nay đã thành vang bóng. Nghệ thuật ấy cũng mang tính hiện đại với nhưng đoạn phân tích ý nghĩa sâu kín, diễn biến tâm lí nhân vật một cách tinh tế.

– Nhân vật Huấn Cao, con người có trách nhiệm đối với đất nước, hiện lên trong truyện với một thái độ tôn sùng của Nguyễn Tuân. Đây cũng là sự giãi bày kín đáo niềm “… khát khao theo đuổi một lý tưởng cao cả của người thanh niên Nguyễn Tuân khi mới bước chân vào đời”. (Trường Chinh).

Dàn ý phân tích nhân vật Huấn Cao – Mẫu 3

I. Mở bài

– Giới thiệu hình tượng nhân vật trung tâm trong “Vang bóng một thời” của tác giả tài hoa Nguyễn Tuân: Những nho sĩ cuối mùa tuy thất thế nhưng vẫn giữ thiên lương và sự trong sạch của tâm hồn

– Huấn Cao trong Chữ người tử tù (in trong Vang bóng một thời) là một trong số đó. Hiện lên trong tác phẩm là một con người mang tài hoa, khí phách và thiên lương.

II. Thân bài

1. Huấn Cao – người nghệ sĩ tài ba

– Tài năng của ông đã được nói tới một cách kính nể qua cuộc nói chuyện giữa quản ngục và thơ lại: “Người khắp vùng tỉnh Sơn khen Huấn Cao là người có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp…”

– Tài năng ấy được thể hiện qua thái độ sùng kính của Quản ngục: “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm…có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một báu vật trên đời”.

– Sự tài hoa thể hiện trong cảnh cho chữ: “Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ”.

2. Huấn Cao – con người của khí phách hiên ngang, bất khuất

– Khí phách hiên ngang thể hiện trong cuộc nói chuyện của quản ngục:

“Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”

Coi nhà tù thực dân như chốn không người: “ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi”, có tài bẻ khóa vượt ngục”

– Ngay khi đặt chân vào nhà ngục: “Thản nhiên rũ rệp trên thang gông…”.

– Khí phách thể hiện qua thái độ của bọn lính: kiêng nể “tên này nguy hiểm và ngạo ngược nhất trong bọn”

– Khi được viên quản ngục biệt đãi: “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”

– Trả lời quản ngục bằng thái độ khinh miệt: “Ngươi hỏi ta muốn gì …vào đây”.

3. Huấn Cao – người mang thiên lương đáng trọng

– Tâm hồn trong sáng, cao đẹp: “Không vì vàng ngọc hay quyền thê mà ép mình viết câu đối bao giờ” là con người trọng nghĩa, khinh lợi, chỉ cho chữ những người tri kỷ.

– Khi chưa biết tấm lòng của quản ngục: xem y là kẻ tiểu nhân. Đến khi biết tấm lòng”biệt nhỡn liên tài” của quản ngục: Huấn Cao nhận lời cho chữ

– Câu nói của Huấn Cao với quản ngục: “Thiếu chút nữa … trong thiên hạ”

4. Sự thống nhất của tài hoa, khí phách, thiên lương làm nên cảnh cho chữ – “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”

– Hình tượng Huấn Cao đang “dậm tô nét chữ” trên “tấm lụa trắng còn nguyên vẹn lần hồ” trong hoàn cảnh “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” ở nơi tù ngục tối tăm.

– Huấn Cao đã trở thành biểu tượng cho sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp cái cao cả đối với cái phàm tục, dơ bẩn

5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Huấn Cao

Đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo

Nghệ thuật tương phản đối lập

Ngôn ngữ miêu tả nhân vật giàu chất tạo hình.

III. Kết bài

Khái quát những nét nghệ thuật tiêu biểu xây dựng thành công nhân vật Huấn Cao

Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân về nhân vật: Huấn Cao là một tấm gương về vẻ đẹp toàn tài con người hôm nay hướng tới

Dàn ý phân tích nhân vật Huấn Cao – Mẫu 4

I. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Chữ người tử tù.

Dẫn dắt giới thiệu đến nhân vật chính của tác phẩm: Huấn Cao.

II. Thân bài

1. Vẻ đẹp của tài năng và khí phách

– Tài năng hơn người:

Không chỉ có tài viết chữ “rất nhanh rất đẹp” mà còn có tài “bẻ khóa vượt ngục” – một con người văn võ toàn tài.

Người nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp: cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.

– Khí phách hiên ngang:

Tự do trong suy nghĩ, hành động: “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái”, thái độ “lãnh đạm” trước sự đe dọa của tên lính áp giải”.

Thái độ khinh bạc, coi thường quyền lực: Dưới mặt Huấn Cao, bọn lính coi ngục chỉ là là lũ tiểu nhân đang thị oai nên thời ơ, coi thường. Thản nhiên trước thái độ biệt đã của viên quản ngục, trả lời quản ngục trả lời: “Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều. Là nhà ngươi đừng bước chân vào đây nữa”, chấp nhận mọi sự trả thù.

2. Vẻ đẹp thiên lương trong sáng

– Coi thường của cải vật chất của Huấn Cao: “Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền quý mà ép mình phải viết chữ bao giờ”

– Trân trọng thiên lương của người khác: “Nào ta có biết, người như thầy quản đây lại có sở nguyện cao đẹp như thế. Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.

– Người hướng thiện: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi…”.

III. Kết bài

Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Chữ người tử tù.

Cảm nhận chung về hình tượng nhân vật Huấn Cao.

Dàn ý phân tích nhân vật Huấn Cao – Mẫu 5

1. Mở bài phân tích nhân vật Huấn Cao

Giới thiệu qua về tác giả Nguyễn Tuân

Giới thiệu qua tác phẩm “Chữ người tử tù”. Đây là truyện ngắn được in trong tập Vang bóng một thời. Nội dung cụ thể kể về một tình huống truyện độc đáo xảy ra trong ngục tối. Nói về cảnh cho chữ của một tử tù Huấn Cao với một viên cai ngục. Đọc câu chuyện, độc giả cảm nhận được sự tiếc nuối của tác giả trước một nét đẹp văn hóa bị mai một.

Giới thiệu qua về nhân vật Huấn Cao

II. Phần thân bài phân tích chi tiết

Luận điểm 1: nhân vật Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa, có tài viết chữ đẹp

Đầu tiên, các bạn cần hiểu thế nào là tài viết chữ đẹp. Ở đây, nhà văn miêu tả Huấn Cao có tài viết chữ thư pháp. Đây là một nét đẹp trong văn hóa xa xưa. Là một thú vui tao nhã được người đời gìn giữ và bảo tồn.

Đặc biệt, tài năng hoa của Huấn Cao được thể hiện rõ thông qua ước mong và nguyện vọng của viên quản ngục. Ông khát khao được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà. Viên quản ngục nói: “Chữ ông đẹp lắm, vuông lắm… Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”. Nếu xin được chữ của Huấn Cao, viên quản ngục thấy mãn nguyện và có chết cũng cam lòng. “Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất”.

Rồi khi cảnh cho chữ diễn ra, hình ảnh người tử tù cho chữ đã làm sáng cả một khoảng tăm tối của ngục tù. Xua đi cái giá lạnh, cái xấu xa nơi tận cùng của xã hội. “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vắng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”

Luận điểm 2: Huấn Cao là người có khí phách hiên ngang, bất khuất

Tiếp đến, khi đã vào ngục, thay vì la khóc, van nài tha tội hay run sợ trước cái chết, thì Huấn Cao lại ung dung và có phần coi thường viên quản ngục. Huấn Cao không chỉ thong dong nhận thức ăn rượu thịt mà viên quản ngục mang vào tự nhiên mà còn tỏ ra thái độ khinh miệt của với viên quản ngục. “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà người đừng đặt chân vào đây.”

Luận điểm 3: nhân vật Huấn Cao là người có nhân cách cao đẹp, thiên lương và trong sáng

Tuy là một người tài hoa, nổi tiếng khắp tỉnh Sơn Đông nhưng Huấn Cao không bao giờ cho chữ vì vàng bạc, vì quyền lực. Ông trân quý chữ như chính sinh mạng của mình. Bởi thế, khi viên quản ngục ngỏ ý xin chữ, Huấn Cao đã nói: “ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”.

Tuy là người thẳng thắn, chính trực yêu cái đẹp và sự thiện lương nhưng ông cũng là một người biết cảm thông và cảm mến với những con người vì hoàn cảnh ngộ mà đưa đẩy vào sự lầm đường lạc lối. Bởi thế, sau nhiều lần nhận được sự chân thành muốn xinh chữ của viên quản ngục Huấn Cao đã rất cảm kích trước “trước tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của ông. Vì thế, khi viên quản ngục chia sẻ tâm tư. Huấn Cao đã quyết định cho chữ ngay ở chốn ngục tù. Không những thế, Huấn Cao còn cảm thấy ân hận và có lỗi khi xem thường viên quản ngục. “Nào đâu có biết một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.”

Nhân phẩm thanh cao của nhân vật Huấn Cao, còn được thể hiện qua sự thẳng thắn khi không dễ dàng chấp nhận sự lẫn lộn cái tốt và cái xấu, giữa cái thiện và cái ác. Bởi thế, sau khi cho chữ, ông đã chân thành khuyên răn viên quản ngục. “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?… Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.

3. Kết bài

Khái quát lại hình tượng nhân vật này một lần nữa. Qua những gì nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả, có thể thấy Huấn Cao là một con người tài hoa, có cái tâm trong sáng và một khí phách hiên ngang. Ông là một người anh hùng chính trực, luôn yêu cái thiện và cực kỳ ghét cái ác. Ông không bao giờ vì tiền bạc mà đánh đổi lương tâm và tài hoa của mình.

Dàn ý phân tích nhân vật Huấn Cao cho chữ

I. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Chữ người tử tù và dẫn dắt đến cảnh cho chữ.

Ví dụ: Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo. Có người đã cho rằng mỗi sáng tác của ông như đóng một dấu triện riêng. Tuy nhiên, điều thú vị là, dấu ấn này không phải qua vài tác phẩm mới bộc lộ, mà ngay từ tập truyện ngắn đầu tay “Vang bóng một thời” (1940) đã được in đậm. “Chữ người tử tù” là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Tuân nằm trong tập truyện trên. Người đọc có thể nhận ra những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của tác giả bậc thầy này qua cảnh cho chữ độc đáo của thiên truyện.

II. Thân bài

1. Khái quát về tác phẩm Chữ người tử tù

– “Chữ người tử tù” là truyện ngắn hội tụ nhiều cái “nhất” trong sự nghiệp của Nguyễn Tuân: Có nhân vật đẹp nhất (Huấn Cao), nhân vật lạ nhất (Quản ngục), cảnh độc đáo nhất (cảnh cho chữ). Đương nhiên, với tất cả những điều ấy, truyện ngắn này cũng có một vị trí đặc biệt, mọi người đều thống nhất rằng đây là một trong những truyện hay nhất trong “Vang bóng một thời” (1940) – tập truyện ngắn đầu tay của nhà văn đã được “Tự lực văn đoàn” trao giải.

– Câu chuyện kể về những ngày Huấn Cao ở trong nhà giam tỉnh Sơn, trước khi về kinh thụ án. Vẻ đẹp của nhân vật này, tư tưởng của thiên truyện đều tỏa sáng rực rỡ trong cảnh cho chữ. Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng ở cảnh này, mọi nét đậm nhất trong phong cách của Nguyễn Tuân đã tụ lại.

2. Phân tích cảnh cho chữ

– Nếu nói như G.S. Nguyễn Đăng Mạnh: “Nguyễn Tuân là nhà văn của những tính cách phi thường, những tình cảm, cảm giác mãnh liệt”, thì có thể nhanh chóng nhận ra rằng cảnh cho chữ đã hội tụ tất cả những nét vượt trội ấy. Đây là một khung cảnh đặc biệt, và chính người khắc hoạ cũng khẳng định rằng đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Advertisement

– Sự đặc biệt này hiện ra ở mọi góc của cảnh: thời gian, không gian và nhân vật.

* Nhân vật:

Thông thường: Người cho chữ và người được cho chữ là những tri âm tri kỷ đến độ “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Ở họ luôn toát ra sự an nhiên, điềm tĩnh, ung dung của bậc túc nho.

Trong tác phẩm: Người cho chữ là một tử tù, người được cho chữ là viên quản ngục. Họ có vị trí đối nghịch trong xã hội. Hơn nữa, họ mới gặp nhau hơn nửa tháng. Đặc biệt, cảnh cho chữ đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi, khi người tù thì dù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn đứng thẳng người và đĩnh đạc, còn quản ngục “khúm núm” và nghẹn ngào. Trong quan hệ xã hội họ là kẻ thù nhưng trong bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm tri kỉ.

* Không gian:

Thông thường: Người ta viết chữ cho nhau ở nơi thư phòng sạch sẽ, không gian của học thuật.

Trong tác phẩm: Người ta viết chữ cho nhau trong “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đây là không gian mà cái xấu, cái ác thống trị.

* Thời gian:

Thông thường: Người ta cho chữ khi thư nhàn, thong thả, trong ánh sáng của buổi mai ấm áp.

Trong tác phẩm: Người ta cho chữ vào ban đêm một cách vội vã, chạy đua với thời gian, gấp rút tránh những ánh mắt của bọn lính đến phiên canh buổi sáng và tránh cái công văn oan nghiệt giải người về kinh thụ án.

3. Ý nghĩa của cảnh cho chữ

– Cho thấy Huấn Cao không phải là một nghệ sĩ bậc thầy trong nghệ thuật thư pháp, đang sáng tạo ra cái đẹp siêu việt trước khi đi vào cõi bất tử.

– Huấn Cao còn hiện lên với vai trò của người hướng thiện: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”.

III. Kết bài

Nhà thơ Lê Đạt đã viết: “Mỗi công dân có một dạng vân tay/Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ”. Yêu cầu này không chỉ đối với nhà thơ, mà với nhà văn cũng thật cần thiết. Nguyễn Tuân chính là nhà văn có “vân chữ” không thể lẫn, điều ấy đã được chứng minh thuyết phục qua cảnh cho chữ trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”.

Phân tích nhân vật Huấn Cao

Nguyễn Tuân nổi tiếng là một nhà văn tài hoa, uyên bác, giàu cá tính. Ông là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Và trong rất nhiều cái đẹp mà ông cảm khái, theo đuổi ấy, ta thấy có cái đẹp ngời sáng giữa cảnh lao tù tăm tối, cái đẹp toát ra từ người tử tù Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”.

Trong tác phẩm, Huấn Cao là một con người sống hiên ngang bất khuất, không có sức mạnh quyền thế, bạc vàng nào có thể khuất phục ông. ” Con người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng còn biết có ai nữa…”. Một con người khẳng khái như vậy còn sợ gì cường quyền hay tham gì tiền bạc?

Là người chọc trời khuấy nước, không chịu được triều đình phong kiến ngày càng suy thoái, mục nát, Huấn Cao chống lại triều đình ấy. Bị gọi là giặc nhưng là vì nghĩa lớn, vì lí tưởng lớn nên điều đó có hề gì. Đến khi bị bắt giam, sắp lên đoạn đầu đài Huấn Cao vẫn hiên ngang, bất khuất “đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là…”. Trong những ngày ở nhà giam tỉnh Sơn, Huấn Cao vẫn giữ phong thái ung dung, tự do, tự tại, không quan tâm đến bất kì ẩn ý nào trong cách cư xử đặc biệt của quản ngục. Ông thản nhiên nhận rượu thịt của quản ngục và coi đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm.

Dưới con mắt Huấn Cao, bọn cầm quyền chỉ là một lũ tiểu nhân thị oai, nên ông luôn tỏ ra khinh bỉ chúng. Ông không thèm chấp lời dọa dẫm của tên lính áp giải khi cùng các bạn tù thực hiện động tác ” dỗ gông” trước cửa nhà lao. Khi viên quản ngục đến tận phòng giam, khép nép hỏi ông có cần gì nữa không, ông trả lời như hắt nước vào mặt quản ngục: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Phân biệt đãi mà vẫn tỏ ra khinh bạc với quản ngục. Đó là khí phách của một trang anh hùng đầy dũng khí, vẫn bình tĩnh sống những ngày cuối đời một cách oanh liệt.

Là con người chọc trời khuấy nước, hiên ngang bất khuất, không sợ bạo lực, cường quyền nhưng Huấn Cao lại coi trọng bản chất tốt đẹp của con người. Trong phần người sâu thẳm mà đôi khi vì hoàn cảnh, người ta phải giấu kín, việc ông cho chữ và lời khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục thể hiện cái tâm của Huấn Cao. Lời ấy là tiếng lòng, là tâm huyết của ông: “Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Ông yêu cái đẹp và trân trọng người biết yêu cái đẹp. Huấn Cao hiểu được tấm lòng quản ngục thì sẵn sàng cho chữ, bởi ông cảm là cảm cái bản chất thiên lương.

……………

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 7: Viết Bài Văn Phân Tích Một Nhân Vật Văn Học Yêu Thích Trong Cuốn Sách Đã Đọc Dàn Ý &Amp; 4 Bài Văn Mẫu Lớp 7 trên website Bgxq.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!